Banner

Tổng hợp 10 bản án hôn nhân gia đình có tranh chấp về quyền nuôi con.

07/10/2023 | Bản án

Thống kê 10 bản án hôn nhân gia đình có tranh chấp về quyền nuôi con.

Mục lục:

1. Bản án số 03/2022/HNGĐ-ST ngày 13/01/2022 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung của Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.

* Nội dung vụ án:

Bà C và ông Nguyễn Văn T tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1994 đến năm 2002 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn N (nay là phường N). Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng về sau do tính tình không hợp nhau, ông T có tính rượu chè say sưa về nhà tìm cách gây sự với bà, đồng thời quan điểm sống khác nhau nên dẫn tới vợ chồng thường xuyên cãi vã, tình cảm rạn nứt. Ủy ban nhân dân, hội phụ nữ xã N đã can thiệp nhiều lần nhưng ông T vẫn không thay đổi, thậm chí còn chửi bới xúc phạm đến cha mẹ và dòng họ của bà. Đến nay xác định tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn cho bà và ông T.

Về con chung: Bà và ông T có 03 con chung là Nguyễn Tấn T, sinh ngày 28/8/1995; Nguyễn Tấn Đ, sinh ngày 23/11/2003 và Nguyễn Cát T, sinh ngày 14/01/2013. Hiện tại con chung Nguyến Tấn T và Nguyễn Tấn Đ đã trưởng thành nên bà không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. Nếu Tòa giải quyết ly hôn cho bà và ông T, bà đồng ý giao con chung chưa thành niên Nguyễn Cát T, sinh ngày 14/01/2013 cho ông T nuôi dưỡng như nguyện vọng của cháu T và yêu cầu của ông T, bà không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị C và ông Nguyễn Văn T tự nguyện đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân thị trấn N (nay là phường N), huyện N (nay là thị xã N) cấp giấy chứng nhận kết hôn số 301, ngày 31 tháng 12 năm 2002 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống, giữa bà C và ông T thường xuyên mẫu thuẫn do tính tình không hợp nhau, ông T có tính rượu chè say sưa về nhà tìm cách gây sự với bà, đồng thời quan điểm sống khác nhau nên dẫn tới vợ chồng thường xuyên cãi vã, tình cảm rạn nứt, thậm chí còn chửi bới xúc phạm đến cha mẹ và dòng họ của bà C. Bà C xác định không còn tình cảm với ông T, vợ chồng không còn quan tâm đến nhau và không còn chung sống với nhau từ năm 2020 đến nay nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông T. Bị đơn ông Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt chứng tỏ ông T có thái độ bỏ mặc, không có thiện chí hàn gắn, đoàn tụ gia đình với bà C. Như vậy, có thể thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà C và ông T đã thực sự trầm trọng, mục đích hôn nhân là xây dựng gia đình hạnh phúc, dân chủ, hòa thuận và bền vững không đạt được; yêu cầu xin ly hôn của bà C là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp khoản 1 Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên cần được chấp nhận.

Về con chung: Bà Nguyễn Thị C và ông Nguyễn Văn T có 03 con chung là Nguyễn Tấn T, sinh ngày 28/8/1995; Nguyễn Tấn Đ, sinh ngày 23/11/2003 và Nguyễn Cát T, sinh ngày 14/01/2013. Hiện tại con chung Nguyễn Tấn T và Nguyễn Tấn Đ đã trưởng thành nên bà không yêu cầu Tòa án xem xét. Bà Chung đồng ý giao con chung chưa thành niên Nguyễn Cát T, sinh ngày 14/01/2013 cho ông T nuôi dưỡng như nguyện vọng của cháu T, bà không phải cấp dưỡng nuôi con chung; tại bản tự khai ngày 01/7/2021, ông T có nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu T nếu Tòa án giải quyết cho ông và bà C được ly hôn, ông T không yêu cầu bà C phải cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy, yêu cầu của bà C, ông T và nguyện vọng của cháu T là có cơ sở, phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị C và ông Nguyễn Văn T xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị C được ly hôn ông Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: Giao con chung chưa thành niên Nguyễn Cát T, sinh ngày 14/01/2013 cho ông Nguyễn Văn T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành. Bà C không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà Nguyễn Thị C có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con, khi cần thiết, các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà Nguyễn Thị C và ông Nguyễn Văn T xác định không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét

2. Bản án số 01/2022/HNGĐ-ST ngày 11/02/2022 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Trà Vinh về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung.

* Nội dung vụ án:

Vào năm 2012 bà và ông Nguyễn Thanh T có tổ chức lễ cưới, sau khi tổ chức lễ cưới ông bà chung sống với nhau nhưng không có đăng ký kết hôn. Trong thời gian chung sống bà và ông T có 02 con chung tên Nguyễn Hạo N, sinh ngày 02/9/2013 và Nguyễn Thanh T, sinh ngày 26/12/2016. Thời gian chung sống vợ chồng không tạo lập được tài sản chung và không nợ ai. Quá trình chung sống vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên cải nhau nhiều lần hòa giải hàn gắng nhưng không thành, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, vợ chồng đã ly thân từ tháng 9 năm 2021 đến nay nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Nguyễn Thị Phương T yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Thanh T.

Về con chung: tên Nguyễn Hạo N, sinh ngày 02/9/2013 và Nguyễn Thanh T, sinh ngày 26/12/2016 bà Nguyễn Thị Phương T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng và không yêu cầu ông Nguyễn Thanh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung bà T khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định:

Về quan hệ hôn nhân: Sau khi thức tổ chức lể cưới vào năm 2012 thì bà Nguyễn Thị Phương T và ông Nguyễn Thanh T chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không có đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng không thể hàn gắn được và bà T yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông T.

Xét, bà T và ông T chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không có đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình. Theo quy định trên việc bà T ông T kết hôn phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền là Ủy ban nhân dân xã, phường nơi ông bà cư trú nhưng bà T ông T không thực hiện đúng quy định, vì vậy việc kết hôn giữa ông bà không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014. Căn cứ vào điểm b, khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10, ngày 09 tháng 6 năm 2000 của Quốc Hội thì bà Nguyễn Thị Phương T và ông Nguyễn Thanh T không được công nhận là vợ chồng.

Về con chung: bà Nguyễn Thị Phương T và ông Nguyễn Thanh T có 02 con chung tên Nguyễn Hạo N, sinh ngày 02/9/2013 và Nguyễn Thanh T, sinh ngày 26/12/2016 hiện tại bà T đang trực tiếp nuôi dưỡng, bà T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng và nguyện vọng của cháu N là được sống chung với mẹ bà T. Xét sau khi bà T, ông T ly thân, cháu N, cháu T sống với bà Thúy, bà vẫn đảm bảo việc chăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng các cháu và cháu N có nguyện vọng sống với mẹ bà T nên chấp nhận yêu cầu của bà T giao con chung tên Nguyễn Hạo N, sinh ngày 02/9/2013 và Nguyễn Thanh T, sinh ngày 26/12/2016 cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Mặc dù được Tòa án giải thích về việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật nhưng bà Nguyễn Thị Phương T không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị Phương T khai không có tài sản chung, không yêu cầu nên Tòa án không đặt ra giải quyết.

Về nợ chung: Bà Nguyễn Thị Phương T khai không có nợ chung, không yêu cầu nên Tòa án không đặt ra giải quyết.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên:

1. Tuyên bố không công nhận bà Nguyễn Thị Phương T và ông Nguyễn Thanh T là vợ chồng.

2. Về con chung: Giao 02 con chung tên Nguyễn Hạo N, sinh ngày 02/9/2013 và Nguyễn Thanh T, sinh ngày 26/12/2016 cho bà Nguyễn Thị Phương T được tiếp tục nuôi dưỡng và nguyện vọng của con chung cháu N là được sống chung với mẹ bà T.

Về cấp dưỡng nuôi con: Mặc dù được Tòa án giải thích về việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật nhưng bà Nguyễn Thị Phương T không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

3. Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị Phương T khai không có tài sản chung, không yêu cầu nên Tòa án không đặt ra giải quyết.

4. Về nợ chung: Bà Nguyễn Thị Phương T khai không có nợ chung, không yêu cầu nên Tòa án không đặt ra giải quyết.

3. Bản án số 18/2022/HNGĐ-ST ngày 10/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung.

* Nội dung vụ án:

Chị T và anh Nguyễn Bá N tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 19/02/2019 tại Ủy ban nhân dân thị trấn XM, huyện CM, TP. Hà Nội. Quá trình chung sống đến tháng 12/2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung nên thường xuyên xảy ra cãi vã. Hai bên gia đình đã nói chuyện với nhau về quan hệ hôn nhân của chị nhưng quyết định ly hôn vẫn là do chị là người quyết định và gia đình tôn trọng ý kiến của chị. Vợ chồng đã ly thân từ tháng 7/2021 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị xác định không còn tình cảm vợ chồng, đề nghị Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Bá N. Trong quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung là: Nguyễn Quỳnh G, sinh ngày 13/7/2019. Hiện cháu G đang ở cùng với chị và ông, bà ngoại. Khi ly hôn chị xin được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu G và yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con chung 3.000.000 đồng /01 tháng. Hiện tại chị không có thai nghén gì. Hiện tại chị đang làm nhân viên thiết kế tại Công ty Cổ phần phát triển công nghệ chiếu sáng HT, thu nhập từ 9.000.000 đồng - 10.000.000 đồng/ 01 tháng. Về tài sản chung, công nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T kết hôn với anh Nguyễn Bá N trên cơ sở tự nguyện, tuân thủ điều kiện kết hôn, có đăng ký kết hôn ngày 19/02/2019 tại Ủy ban nhân dân thị trấn XM, huyện CM, Tp. Hà Nội nên hôn nhân giữa chị T và anh N là hôn nhân hợp pháp. Trên cơ sở lời khai của chị T, anh N và kết quả thu thập chứng cứ về tình trạng hôn nhân cho thấy: Trong quá trình chung sống, giữa chị T và anh N có mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, hai bên không có tiếng nói chung, không thể hàn gắn được. Thực tế chị T và anh N đã ly thân từ tháng 7 năm 2021 đến nay. Trước yêu cầu xin ly hôn của chị T, anh N không đồng ý vì cho rằng vẫn còn tình cảm với chị T nhưng không có biện pháp cải thiện tình cảm vợ chồng. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh N đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Yêu cầu của chị T xin ly hôn anh N là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên được chấp nhận.

Về con chung: Chị T và anh N xác nhận có 01 con chung là cháu Nguyễn Quỳnh G, sinh ngày 13/7/2019. Hiện đang ở với chị T, khi ly hôn chị T và anh N đều có nguyện vọng nuôi cháu G.

Xét việc xin nuôi con chung thấy: Hiện cháu G dưới 36 tháng tuổi căn cứ Khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con….”. Chị T có công việc và thu nhập ổn định, do vậy cần giao cháu G cho chị T tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Anh N có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T tự nguyện không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho anh N đến khi có sự thay đổi khác.

Về tài sản chung, công nợ chung: Chị T, anh N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên:

1.Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Nguyễn Bá N.

2. Về con chung: Chị T và anh N xác nhận có 01 con chung là Nguyễn Quỳnh G, sinh ngày 13/7/2019. Giao cháu Nguyễn Quỳnh G cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi cháu G đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác. Anh Nguyễn Bá N có quyền, nghĩa vụ đi lại, thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Ghi nhận sự tự nguyện của chị T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho anh N đến khi có sự thay đổi khác.

4. Về tài sản chung, công nợ chung: Chị T và anh N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

4. Bản án 58/2018/HNGĐ-PT ngày 23/11/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau.

* Nội dung vụ án:

Về hôn nhân: Chị Ng và anh Tr kết hôn vào ngày 03 tháng 11 năm 2003, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Kh, huyện Tr , tỉnh Cà Mau. Trong thời gian chung sống, chị và anh Tr thường xuyên mâu thuẫn dẫn đến cải nhau, anh Tr không quan tâm đến chị và các con, thường xuyên uống rượu. Chị và anh Tr đã ly thân khoảng 03 tháng nên chị yêu cầu được ly hôn anh Tr.

Về con chung: Chị và anh Tr có 03 người con chung: Huỳnh Thế Tr , sinh ngày 09 tháng 9 năm 2004, Huỳnh Nhã Tr , sinh ngày 22 tháng 11 năm 2009 và Huỳnh Bảo Ch , sinh ngày 23 tháng 6 năm 2013. Chị yêu cầu nuôi 03 người con chung và yêu cầu anh Tr cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị xác định, chị và anh Tr không có tài sản chung, nợ chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên:

Về hôn nhân: Chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Ng ly hôn anh Huỳnh Minh Tr (Huỳnh Thanh Tr ).

Về con chung: Giao các cháu Huỳnh Thế Tr , sinh ngày 09 tháng 9 năm 2004, Huỳnh Nhã Tr , sinh ngày 22 tháng 11 năm 2009 và Huỳnh Bảo Ch , sinh ngày 23 tháng 6 năm 2013 cho chị Nguyễn Thị Ng nuôi. Anh Huỳnh Minh Tr (Huỳnh Thanh Tr ) phải cấp dưỡng nuôi các cháu Huỳnh Thế Tr , Huỳnh Nhã Tr và Huỳnh Bảo Ch, mỗi cháu 700.000 đồng/tháng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Thời gian cấp dưỡng được tính từ ngày tuyên án. Anh Tr có quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định. Ngày 13/8/2018, anh Triều có đơn kháng cáo yêu cầu ghi tên của anh Tr trong bản án theo giấy đăng ký kết hôn là Huỳnh Minh Tr và yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng, không đồng ý cấp dưỡng nuôi con.

* Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:

 Xét nội dung đơn kháng cáo của anh Tr, anh Tr yêu cầu ghi tên của anh Tr trong bản án là Huỳnh Minh Tr . Hội đồng xét xử xét thấy, theo giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu thì anh Tr có tên là Huỳnh Thanh Tr , nhưng theo giấy đăng ký kết hôn là Huỳnh Minh Tr . Tại phiên tòa phúc thẩm anh Tr thừa nhận tên Trần Thanh Tr và Trần Minh Tr là tên của anh Tr. Bản án sơ thẩm ghi tên Huỳnh Thanh Tr nhưng sau đó ban hành quyết định sửa chữa bổ sung bản án là Huỳnh Minh Tr. Xét thấy Huỳnh Thanh Tr và Huỳnh Minh Tr là cùng một người nên cần ghi Huỳnh Thanh Tr (tên gọi khác là Huỳnh Minh Tr ) là phù hợp.

Về con chung: Anh Tr và Chị Ng có 03 con chung là Huỳnh Thế Tr , sinh ngày 09 tháng 9 năm 2004, Huỳnh Nhã Tr, sinh ngày 22 tháng 11 năm 2009 và Huỳnh Bảo Ch , sinh ngày 23 tháng 6 năm 2013. Anh Tr kháng cáo không đồng ý cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy, tại Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình quy định “ Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con”. Đã qua các con anh, chị đều yêu cầu được sống với Chị Ng nên cấp sơ thẩm đã giao các con cho Chị Ng nuôi và có xem xét về mức thu nhập và khả năng thực tế của anh Tr nên quyết định buộc anh Tr phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi mỗi người con mỗi tháng 700.000 đồng là phù hợp. Vì vậy không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Tr về việc không đồng ý cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị Ng xác định chị và anh Tr không có tài sản chung, không có nợ chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại cấp sơ thẩm, anh Tr không tham gia phiên tòa và cũng không có yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng nên cấp sơ thẩm không xem xét. Hiện nay anh Tr kháng cáo yêu cầu chia tài sản chung, do cấp sơ thẩm chưa giải quyết nên cấp phúc thẩm không thể giải quyết theo yêu cầu của anh Tr. Anh Tr có quyền khởi kiện yêu cầu chia tài sản sau khi ly hôn thành một vụ án khác theo thủ tục chung.

* Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của anh Huỳnh Thanh Tr (Huỳnh Minh Tr ).

Giữ nguyên bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 129/2018/HNGĐ – ST ngày 02 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Tr.

1.Về hôn nhân: Chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Ng ly hôn anh Huỳnh Thanh Tr (Huỳnh Minh Tr ).

2.Về con chung: Giao Huỳnh Thế Tr, sinh ngày 09 tháng 9 năm 2004, Huỳnh Nhã Tr, sinh ngày 22 tháng 11 năm 2009 và Huỳnh Bảo Ch, sinh ngày 23 tháng 6 năm 2013 cho Chị Ng nuôi. Anh Tr phải cấp dưỡng nuôi các cháu Huỳnh Thế Tr, Huỳnh Nhã Tr và Huỳnh Bảo Ch , mỗi cháu mỗi tháng 700.000 đồng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Thời gian cấp dưỡng được tính từ ngày xét xử sơ thẩm là ngày 02/7/2018. Anh Tr có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được trở.

5. Bản án số 46/2021/HNGĐ- ST ngày 30/09/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung của Tòa án nhân dân quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ. 

* Nội dung bản án:

Bà Nguyễn Thị Thu Th và ông Hồ Văn Ch tự tìm hiểu và tiến đến hôn nhân có đăng ký kết hôn tại UBND phường T, quận B, thành phố C năm 2010. Quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc, ông bà có 02 con chung là Hồ Thị Trà M (nữ), sinh ngày 09/4/2012 và Hồ Thị Thảo M (nữ), sinh ngày 09/7/2013. Sau đó phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, suy nghĩ dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vã ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình, hôn nhân không hạnh phúc. Bà Th và ông Ch đã ly thân với nhau. Nay nhận thấy tình cảm không còn nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn với ông Hồ Văn Ch.

Về con chung: Giữa bà Th và ông Ch có 02 con chung là Hồ Thị Trà M (nữ), sinh ngày 09/4/2012 và Hồ Thị Thảo M (nữ), sinh ngày 09/7/2013. Bà Thảo đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung, không yêu cầu ông Ch cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà và ông Ch không có tài sản chung, nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tòa án cấp sơ thẩm nhận định:

Về quan hệ tranh chấp:

Xét hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Thu Th và ông Hồ Văn Ch đã phát sinh mâu thuẫn mà nguyên nhân theo bà Thảo là do bất đồng quan điểm sống, cả hai thường hay cãi vã. Cuộc sống vợ chồng không còn đồng cảm và hạnh phúc như thời gian đầu chung sống.

Hội đồng xét xử nhận thấy, quan hệ hôn nhân là sự gắn kết giữa vợ chồng, phải có sự đồng thuận, tự nguyện từ hai phía, phải có tình yêu thương quan tâm và chăm sóc các thành viên trong gia đình. Bà Thảo nhất quyết ly hôn với ông Ch vì tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt. Ông Ch không đến Tòa án cũng không có văn bản thể hiện ý kiến gửi đến Tòa án nên Hội đồng xét xử không ghi nhận được ý kiến của ông cũng như cho thấy ông không muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng duy trì cuộc sống hôn nhân. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy chấp thuận yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Thu Th và ông Hồ Văn Ch là có cơ sở.

Về con chung: Bà Th và ông Ch có hai người con chung như đã trình bày, bà Thảo yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung. Xét thấy, hiện bà Thảo đang là người trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung. Như vậy, để bảo đảm về điều kiện nuôi dưỡng, sự phát triển về tâm sinh lý và quyền lợi cũng như sự ổn định của trẻ, Hội đồng xét xử quyết định giao hai trẻ là Hồ Thị Trà M (nữ), sinh ngày 09/4/2012 và Hồ Thị Thảo M (nữ), sinh ngày 09/7/2013 cho bà Thảo trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục theo quy định tại Khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Hội đồng xét xử dành quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung cho ông Ch, không ai được cản trở ông Ch thực hiện quyền này. Đồng thời bà Thảo không yêu cầu ông Ch cấp dưỡng nuôi con đây là sự tự nguyện của đương sự nên chấp thuận. Ông Ch có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con nếu chứng minh được bà Thảo không nuôi dưỡng con chung tốt, không đảm bảo đủ các điều kiện để cháu phát triển toàn diện.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Thảo không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Do ông Ch vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến. Do đó tách phần yêu cầu về tài sản chung, nợ chung thành vụ kiện khác khi đương sự có yêu cầu và có đủ cơ sở để chứng minh.

* Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Thu Th được ly hôn với ông Hồ Văn Ch.

2. Về con chung: Giao con chung là Hồ Thị Trà M (nữ), sinh ngày 09/4/2012 và Hồ Thị Thảo M (nữ), sinh ngày 09/7/2013 cho bà Thảo trực tiếp nuôi dưỡng, ông Ch không cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung cho ông Ch, không ai được cản trở quyền này.

3. Tài sản chung và nợ chung: Bà Thảo không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tách ra giải quyết thành vụ kiện khác khi các bên đương sự yêu cầu và có đủ cơ sở để chứng minh.

6. Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 46/2021/HNGĐ-ST của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương.

* Nội dung vụ án:

 Chị và anh N chung sống và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện B, tỉnh Đồng Tháp theo Giấy chứng nhận kết hôn số 82/2013, đăng ký ngày 05/9/2013, hôn nhân tự nguyện.Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn, cãi vã, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, anh N không chăm lo hạnh phúc gia đình và có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Nay chị yêu cầu ly hôn với anh N.

Về con chung: Chị và anh N có 01 con chung tên Nguyễn V, sinh ngày 24/8/2014. Chị yêu cầu được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn V và yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi cháu V đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tòa án cấp sơ thẩm nhận định:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê N và anh Nguyễn N chung sống và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện B, tỉnh Đồng Tháp theo Giấy chứng nhận kết hôn số 82/2013, quyển số 01/2013, hôn nhân là hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Nay chị N yêu cầu ly hôn với anh N, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, anh N không chăm lo cuộc sống gia đình và có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Xét thấy, trong quá trình tố tụng, anh Nguyễn N đã được Tòa án tống đạt các Văn bản tố tụng theo quy định pháp luật, nhưng vẫn cố tình vắng mặt. Đồng thời, ngày 31/3/2021, Tòa án có Quyết định số 06/QĐ-CCTLCC về việc yêu cầu anh N cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh lời trình bày, nguyên nhân mâu thuẫn chị N trình bày là không có căn cứ, nhưng anh N không cung cấp. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa chị N và anh N đã tới mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cần cho chị Lê N được ly hôn với anh Nguyễn N.

Về con chung: Chị Lê N và anh Nguyễn N có 01 con chung tên Nguyễn V, sinh ngày 24/8/2014, chị N yêu cầu được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu V và yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi cháu V mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi cháu V đủ 18 tuổi. Xét thấy yêu cầu này của chị N là phù hợp, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị Lê N không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

* Tòa án cấp sơ thẩm quyết định:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Lê N đối với bị đơn anh Nguyễn N.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê N được ly hôn với anh Nguyễn VN.

Về con chung: Giao cho chị Lê N trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Nguyễn V, sinh ngày 24/8/2014. Anh Nguyễn N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn V mỗi tháng 2.000.000 (hai triệu) đồng kể từ ngày 23/6/2021 cho đến khi cháu Nguyễn V đủ 18 tuổi. Anh Nguyễn N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được quyền cản trở.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị Lê N không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

7. Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 20/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện M, thành phố Hà Nội.

* Nội dung bản án:

Chị Nguyễn Thị Ngọc A và anh Nguyễn Văn T kết hôn tự nguyện, đăng ký ngày 19/4/2018 tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện M, thành phố Hà Nội. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống được thời gian ngắn thì mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm, lối sống, thường xuyên lục đục, cãi vã nhau. Chị và gia đình hai bên nội ngoại đã tìm nhiều biện pháp để hòa giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả. Chị và anh T đã ly thân từ tháng 3/2020 đến nay, mỗi người một cuộc sống riêng, không ai quan tâm đến ai. Nay chị xin ly hôn anh Nguyễn Văn T để ổn định cuộc sống.

- Về con chung: chị và anh Nguyễn Văn T có 01 con chung là cháu Nguyễn Phúc K, sinh ngày 23/7/2019. Hiện nay cháu K đang ở với chị. Nay ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu K và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung và nợ chung: chị xác nhận không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Ngọc A và anh Nguyễn Văn T kết hôn tự nguyện, có đăng ký, là hôn nhân hợp pháp. Theo biên bản xác minh quan hệ hôn nhân tại gia đình anh T và tại chính quyền địa phương và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện: quá trình chung sống giữa hai bên không có hạnh phúc, phát sinh nhiều mâu thuẫn, vợ chồng đã ly thân từ tháng 3/2020 đến nay. Quá trình giải quyết, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh T không có mặt tại Tòa án để có quan điểm về việc chị Anh xin ly hôn với anh. Việc này chứng tỏ anh T không quan tâm đến cuộc sống chung và hạnh phúc vợ chồng. Xét thấy các quyền, nghĩa vụ của vợ chồng trong quan hệ hôn nhân giữa chị Lê Thị Ngọc A và anh Nguyễn Văn T bị vi phạm nghiêm trọng, mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị Ngọc A và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

2. Về con chung: xét yêu cầu nuôi con chung Nguyễn Phúc K, sinh ngày 23/7/2019 của chị Lê Thị Ngọc A thì thấy: từ khi vợ chồng ly thân, cháu K vẫn ở với chị Ngọc A, được chăm sóc, nuôi dưỡng ổn định và phát triển bình thường, mặt khác cháu K chưa đủ 36 tháng tuổi. Vì vậy để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung, cần chấp nhận yêu cầu của chị Ngọc A và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M, theo đó giao cháu Nguyễn Phúc K cho chị Lê Thị Ngọc A trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác là phù hợp theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; đồng thời ghi nhận sự tự nguyện của chị Ngọc A không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh T cho đến khi có yêu cầu mới.

Về tài sản, công sức và nợ chung: chị Lê Thị Ngọc A xác nhận không có và không đề nghị giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Ngọc A. Cụ thể:

1. Về quan hệ hôn nhân: chị Lê Thị Ngọc A được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: giao con chung Nguyễn Phúc K, sinh ngày 23/7/2019 cho chị Lê Thị Ngọc A được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc khi có sự thay đổi khác.

Anh Nguyễn Văn T có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

8. Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 54/2021/HNGĐ-ST ngày 6/8/2021 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh B.

* Nội dung vụ án:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Vũ Trọng N kết hôn với nhau vào ngày 24 tháng 7 năm 2007, có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện N (nay là UBND phường L, thị xã T) tỉnh Nghệ An, hôn nhân giữa chị Hà và anh N được xác lập trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn chị và anh N chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh N thường xuyên uống rượu, không tu chí làm ăn, không chăm lo cuộc sống trong gia đình dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Mặc dù mâu thuẫn giữa chị và anh N đã được hai bên gia đình nội ngoại hoà giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Do không thể sống chúng với nhau được nữa nên chị và anh N đã sống ly thân từ đầu năm 2021 đến nay, từ khi sống ly thân cho đến nay vợ chồng không còn ai quan tâm, chăm sóc tới nhau nữa. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng không thể tiếp tục chung sống với nhau nên chị yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Vũ Trọng N.

Về con chung: Chị và anh Vũ Trọng N có ba con chung là Vũ Khánh L, sinh ngày 07/3/2008; Vũ Trọng P, sinh ngày 16/8/2015 và Vũ Trọng T, sinh ngày 13/01/2019, không ai có con riêng, không nhận nuôi con nuôi. Nay ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục ba con chung của chị và anh N. Chị không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con chung.

Về chia tài sản: Chị và anh N không có tài sản chung, không cho ai vay cũng như không vay nợ ai tài sản gì nên chị không yêu cầu Toà án giải quyết.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định:

Về nôi dung:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Vũ Trọng N đăng ký kết hôn vào ngày 24 tháng 7 năm 2007 tại UBND xã N, huyện N (nay là UBND phường L, thị xã T) tỉnh Nghệ An. Hôn nhân giữa chị H và anh N được xác lập trên cơ sở tự nguyện. Do đó hôn nhân giữa chị H, anh N là hợp pháp.

Về nguyên nhân mâu thuẫn: Theo chị H nguyên nhân mẫu thuẫn vợ chồng là do anh Nghĩa không tu chí làm ăn, thường xuyên uống rượu, không chăm lo cuộc sống trong gia đình dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Mặc dù mâu thuẫn giữa chị và anh N đã được hai bên gia đình nội ngoại hoà giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Do không thể sống chung với nhau được nữa nên vợ chồng đã sống ly thân từ đầu năm 2021 đến nay. Từ khi sống ly thân vợ chồng không còn ai quan tâm, chăm sóc tới nhau nữa. Sau khi thị lý vụ án Toà án đã triệu tập, thông báo hợp lệ cho anh N để giải quyết vụ án nhưng anh N đều từ chối nhận văn bản tố tụng của Tòa án và đều vắng mặt không có lý do. Sau đó anh N vắng mặt tại địa phương, đi đâu làm gì không rõ. Điều đó chứng tỏ anh N không mong muốn tìm giải pháp để hàn gắn tình trạng mâu thuẫn của vợ chồng. Mặt khác tại biên bản xác minh về tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh N tại địa phương xác định chị H và anh N đã sống ly thân từ đầu năm 2021 đến nay nên khả năng để chị H và anh N đoàn tụ là không khả thi. Điều đó chứng tỏ mâu thuẫn giữa chị H và anh N đã trầm trọng mà không thể hàn gắn được.

Xét mâu thuẫn giữa chị H, anh N đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình cho chị H được ly hôn với anh N như lời đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thái Hòa là có căn cứ.

2. Về nuôi con chung: Chị H và anh N có ba con chung là Vũ Khánh L, sinh ngày 07/3/2008; Vũ Trọng P, sinh ngày 16/8/2015 và Vũ Trọng T, sinh ngày 13/01/2019, không ai có con riêng, không nhận nuôi con nuôi. Xét chị có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục ba con chung của chị và anh N và không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con chung, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Chị H có công việc là lao động tự do (phụ hồ), thu nhập bình quân mỗi tháng 7.000.000 đồng (bảy triệu đồng), đảm bảo điều kiện trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng các con chung. Mặt khác sau khi chị H anh N sống ly thân thì chị H là người trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng ba con chung của vợ chồng và hiện đang sinh sống cùng bố mẹ đẻ của chị H. Hơn nữa con chung là Vũ Khánh L cũng có nguyện vọng được ở với chị H. Quá trình Tòa án xác minh tại địa phương cũng như trên cơ sở xem xét ý kiến của Phòng lao động thương binh và xã hội UBND thị xã Thái Hòa đã xác định được trong quá trình chung sống chị H, anh N đều không ai có hành vi đánh đập, ngược đãi con chung. Mặt khác quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa anh N đều vắng mặt không có lý do, hiện tại anh N vắng mặt tại địa phương, đi đâu, làm gì chính quyền địa phương không nắm được. Do đó để tạo mọi điều kiện tốt nhất cho ba con chung của chị H và anh N được phát triển toàn diện về thể chất lẫn tinh thần, đảm bảo quyền và lợi ích mọi mặt của con chung chưa thành niên khi chị H, anh N ly hôn, cần giao ba con chung của chị H, anh N cho chị H được trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng theo quy định tại các Điều 58; 81; 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thái Hòa là phù hợp.

Chị H không yêu cầu anh N thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, do đó Hội đồng xét xử miễn xét.

3. Về chia tài sản: Chị Nguyễn Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Vũ Trọng N.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng ba con chung của chị H và anh N là Vũ Khánh L, sinh ngày 07/3/2008; Vũ Trọng P, sinh ngày 16/8/2015 và Vũ Trọng T, sinh ngày 13/01/2019, đến lúc con chung trưởng thành.

2.2. Chị H không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử miễn xét.

2.3. Anh Vũ Trọng N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

2.4. Vì lợi ích mọi mặt của con, khi có lý do chính đáng hoặc có căn cứ theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của một hoặc các bên thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

3. Về chia tài sản: Chị Nguyễn Thị H không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

9. Bản án 214/2019/HNGĐ-ST ngày 30/09/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.

* Nội dung bản án:

Chị Y và anh Trần Ngọc K chung sống vào năm 2015 nhưng không có đăng ký kết hôn. Khi về chung sống xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, anh K không quan tâm đến gia đình, khi đi nhậu về thì có hành vi đánh đập chị. Mặc dù đã được gia đình hai bên hòa giải nhưng vợ chồng không thể quay lại chung sống nên chị yêu cầu được ly hôn với anh K.

Quá trình chung sống, có 02 người con chung gồm: Trần Lê Tường V, sinh ngày 24/12/2015 và Trần Lê Cát T, sinh ngày 21/12/2016; hiện nay, Tường V do anh K nuôi và Cát T do chị Y nuôi. Khi ly hôn, chị Y yêu cầu được nuôi Cát T và giao Tường V cho anh K nuôi, việc cấp dưỡng không đặt ra.

Về tài sản chung và các vấn đề khác: Không có.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định:

Chị Y và anh Trần Ngọc K chung sống vào năm 2015 nhưng không có đăng ký kết hôn. Khi về chung sống xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, anh K không quan tâm và có hành vi đánh đập đối với chị Y. Từ nguyên nhân trên, chị Y xác định không thể hàn gắn chung sống trở lại nên yêu cầu được ly hôn. Trong khi đó, anh K không có Y kiến gì về quan hệ hôn nhân, nguyên nhân mâu thuẫn và yêu cầu của chị Y.

Xét yêu cầu của chị Y thấy rằng: Theo khoản 1 Điều 14 của Luật Hôn nhân và Gia đình thì “Nam, nữ đủ điều kiện kết hôn theo quy định của luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng kY kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của vợ chồng…”. Đối chiếu với quy định trên, Hội đồng xét xử không xem xét nguyên nhân mâu thuẫn và yêu cầu xin ly hôn của chị Y mà căn cứ khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và Gia đình không công nhận quan hệ vợ chồng giữa các đương sự này là đúng quy định của pháp luật.

Về con chung gồm: Trần Lê Tường V, sinh năm 2015 và Trần Lê Cát T, sinh năm 2016; hiện nay, Tường V do anh K nuôi và Cát T do chị Y nuôi. Khi ly hôn, chị Y yêu cầu giữ nguyên việc nuôi dưỡng con chung như hiện nay nhưng anh K không có ý kiến gì về vấn đề này.

Do đó, để ổn định trong việc chăm sóc, giáo dục nên chấp nhận yêu cầu của chị Y là phù hợp và đúng quy định của pháp luật.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

Về các vấn đề khác: Chị Y xác định không có, anh K không có ý kiến gì về các vấn đề này nên không đặt ra xem xét.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên:

Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Lê Thị Y và anh Trần Ngọc K.

Về con chung: Giao Trần Lê Tường V, sinh ngày 24/12/2015 cho anh K và Trần Lê Cát T, sinh ngày 21/12/2016 cho chị Y tiếp tục nuôi dưỡng, việc cấp dưỡng không đặt ra. Chị Y, anh K có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

10. Bản án 101/2017/HNGĐ-ST ngày 29/08/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung của Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

* Nội dung vụ án:

Ông Đ và bà Ngô Thị G tự nguyện xây dựng gia đình với nhau vào năm 2010, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại UBND xã L. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng một năm thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống nhất là về chi tiêu tài chính trong gia đình dẫn đến gây gỗ cãi vã nhau, các vấn đề khác cũng không được đồng thuận.  Đến tháng 12 năm 2013, bà G bỏ nhà đi ông không biết đi đâu làm gì, gia đình đã tìm kiếm nhiều nơi nhưng không có tin tức gì. Ông đã làm đơn yêu cầu và đã được Tòa án nhân dân huyện Long Thành chấp nhận đơn và đã ra Quyết định số 01/2017/QĐ.DSST ngày 09/1/2017 tuyên bố bà G mất tích. Ông   xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Ngô Thị G.

Về con chung: có 01 cháu  Bùi Quốc M, sinh ngày 11/4/2010. Đề nghị Tòa án giao cháu M cho ông được tiếp tục nuôi dưỡng,  không yêu cầu bà G phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định:

Về quan hệ hôn nhân: Ông Đ và bà G tự nguyện xây dựng gia đình với nhau vào năm 2010 có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện L, tỉnh Đồng Nai (giấy chứng nhận kết hôn số 43, quyển số 01 ngày 19 tháng 5 năm 2010) nên được xem là hôn nhân hợp pháp.

Xét thấy, từ năm 2013 đến nay  bà G đã bỏ nhà đi khỏi địa phương không có liên lạc gì với gia đình, theo yêu cầu của ông Đ ngày 09/1/2017 Tòa án nhân dân huyện L đã ra quyết định số 01/2017/QĐ.DSST tuyên bố bà G mất tích.  Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Đ, xử cho ông Đ được ly hôn bà G là phù hợp Điều 56 Luật hôn nhân gia đình Việt Nam.

Về con chung: có 01 cháu tên Bùi Quốc M, sinh ngày 11/4/2010.

Xét thấy, sau khi bà G bỏ đi, cháu M được ông Đ chăm sóc tốt. Hiện nay cháu M đã trên 7 tuổi, qua tham khảo ý kiến cháu cũng có nguyện vọng được sống với bố nên cần căn cứ Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình Việt Nam giao cháu M cho ông Đ tiếp tục nuôi dưỡng. Ông Đ nuôi con không yêu cầu bà G cấp dưỡng nên không xét.

Về  tài sản chung, nợ chung: ông Đ khai không có nên không xét.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên:

- Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn ông Bùi Văn Đ, xử cho ông Bùi Văn Đ được ly hôn bà Ngô Thị G.

- Về con chung: Giao cháu Bùi Quốc M, sinh ngày 11/4/2010 cho ông Bùi Văn Đ trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm thời bà Ngô Thị G không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, bà Ngô Thị G có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Khi cần thiết các đương sự được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung; nợ chung: không xét.

Trên đây là danh sách 10 bản án hôn nhân gia đình có tranh chấp về nuôi con chung. Nhằm mang lại dịch vụ pháp lý tốt nhất cho khách hàng, mọi thắc mắc cần giải đáp khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi theo thông tin phía dưới.

          Công ty Luật TNHH MTV DB (DB Legal) là Công ty Luật Việt Nam cung cấp các dịch vụ pháp lý uy tín, chuyên nghiệp. Với đội ngũ nhân sự trách nhiệm, có chuyên môn cao, DB Legal là đối tác tin cậy cho khách hàng cá nhân và doanh nghiệp trong các vấn đề pháp lý tại Việt Nam.

 

Để biết thêm thông tin chi tiết vui lòng liên hệ với chúng tôi

Local Office Numbers:
Hotline/Zalo/Whatsapp: +84 357 466 579
Email: contact@dblegal.vn

Liên hệ

Địa chỉ 1: Tầng 3, Tòa nhà Indochina Riverside Tower, 74 Bạch Đằng, Quận Hải Châu, Thành phố Đà Nẵng, Việt Nam

Địa chỉ 2: 28 Thanh Lương 20, Phường Hòa Xuân, Quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng

Hotline 1: (+84) 357 466 579

Hotline 2: (+84) 985 271 242

Điện thoại: (+84) 236.366.4674

Email: contact@dblegal.vn

zalo
facebook