Banner

Tổng hợp 10 bản án hôn nhân gia đình có tranh chấp về tài sản là quyền sử dụng đất.

02/10/2023 | Bản án

Thống kê 10 bản án hôn nhân gia đình có tranh chấp về tài sản là quyền sử dụng đất.

Mục lục:

1. Bản án Hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 23/2022/HNGĐ-PT ngày 09 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.

* Nội dung vụ án:

Ông Võ Văn N và bà Nguyễn Thị D trước đây là vợ chồng, do thời gian sống chung phát sinh nhiều mâu thuẫn, không hạnh phúc nên ông N và bà D đã ly hôn với nhau theo bản án số 102/2018/HNGĐ-ST ngày 02/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc. Theo nội dung Bản án tuyên: ông N và bà D được ly hôn với nhau; về tài sản chung: ông N và bà D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét. Nay hai bên có mâu thuẫn về chia tài sản chung sau khi ly hôn và hai bên không thống nhất được việc phân chia tài sản. Do đó, ngày 19/5/2020 ông N đã làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án có Thẩm quyền chia tài sản chung giữa ông và bà D sau khi ly hôn. Theo kết quả thẩm định, định giá ông N yêu cầu được chia 175.000.000 đồng do bà D có  trách nhiệm giao lại cho ông N.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định:

Tại Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 61/2022/HNGĐ-ST ngày 01 tháng 7 năm 2022, Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Văn N.

Ông Võ Văn Ngà được chia đôi giá trị phần tài sản chung (phần đất  và cây trồng trên đất thuộc thửa đất số 233, tờ bản đồ số 25, toạ lạc ấp Thành Hóa 2, xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre và ngôi nhà cấp 4 xây tường trên thửa đất số 1714, tờ bản đồ số 4 (theo  bản đồ 299), tọa lạc ấp Thành Hóa 1, xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre) là 168.562.000 đồng, số tiền này do bà Nguyễn  Thị D có nghĩa vụ giao lại cho ông Võ Văn Ngà.

Bà Nguyễn Thị D được chia tài sản chung bằng hiện vật gồm: quyền  sử dụng đất có diện tích là 950,2 m2 thuộc thửa đất số 233, tờ bản đồ số 25, toạ lạc ấp Thành Hóa 2, xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre và cây trồng trên đất là 22 cây dừa 15 năm tuổi, phần đất này do bà D đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; một ngôi nhà cấp 4  xây tường trên thửa đất số 1714, tờ bản đồ số 4 (theo bản đồ 299), tọa lạc ấp Thành Hóa 1, xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre; tất cả tài sản này do bà D đang quản lý, sử dụng.

Ngày 13/7/2022, bị đơn bà Nguyễn Thị D có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm: Bà yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm bác một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Văn N, bà chỉ đồng ý chia căn nhà ½ giá trị bằng tiền là 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng)  vì đây là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân chưa được chia.

* Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:

- Về nội dung: Xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị D, nhận thấy:

Giữa ông N và bà D đã thống nhất được tài sản chung là căn nhà tọa lạc trên đất của ông T, bà U, nhưng các bên không thống nhất được giá trị còn lại của căn nhà. Do bà D, ông T, bà U không hợp tác và có hành vi cản trở không cho Hội đồng định giá tiến hành định giá tài sản. Phía ông N không có hành vi cản trở Hội đồng định giá, đưa ra giá trị tài sản của căn nhà còn lại là 200.000.000 đồng.

Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 17 Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BTC ngày 28/3/2014 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Tòa án cấp sơ thẩm xác định giá trị căn nhà đang tranh chấp theo giá ông N đưa ra là có căn cứ, từ đó buộc bà D có nghĩa vụ giao cho ông N ½ giá trị căn nhà với số tiền là 100.000.000 đồng là phù hợp. Bà D kháng cáo chỉ đồng ý hoàn trả cho ông N ½ giá trị căn nhà với số tiền  50.000.000 đồng. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện theo  ủy quyền của bà D rút kháng cáo về phần chia căn nhà, phía bà D đồng ý giao cho ông N ½ giá trị căn nhà với số tiền là 100.000.000 đồng theo bản án sơ thẩm đã tuyên. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 289 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phần rút kháng cáo của bà D tại phiên tòa về chia căn nhà.

Đối với kháng cáo của bà D không đồng ý chia phần tài sản là quyền sử dụng đất thuộc thửa 233 tờ bản đồ số 25, nhận thấy: Thửa đất số 233 là tài sản mà bà D có được trong thời kỳ hôn nhân. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình thì quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Bà D cho rằng đây là tài sản riêng của bà nhưng bà không có chứng cứ chứng minh, do đó cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông N buộc bà D chia cho ông N ½ giá trị quyền sử dụng đất và cây trồng trên đất theo giá của Hội đồng định giá là có căn cứ. Bà D kháng cáo không đồng ý chia cho ông N là không có cơ sở chấp nhận.

* Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên xử:

Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị D. Giữ nguyên quyết định Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số: 61/2022/HNGĐ-ST ngày 01 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân  huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre.

2. Bản án Hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 25/2022/HNGĐ-PT ngày 19 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.

* Nội dung vụ án:

Bà Phạm Thị Ngọc Th và ông Trần Trọng N là vợ chồng chung  sống với nhau từ năm 2000 nhưng đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 74/2021/QĐSTHNGĐ ngày 05/02/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Quá trình chung sống hai ông, bà có 02 con chung là Trần Ngọc N, sinh năm 2000 và Trần Thư Th, sinh năm 2006. Về tài sản trong quá trình chung sống hai ông, bà có tài sản chung gồm có: quyền sử dụng đất có diện tích 89,0m2 thuộc thửa số 2857, tờ bản đồ số 3DH.1 tọa lạc khu phố Tây B, phường Đông Hòa, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, trên đất gắn liền là 01 căn nhà 02 tầng có diện tích sàn 75,1m2. Vì lý do, khi ly hôn chưa chia tài sản chung nên nay bà Th khởi kiện ông N yêu cầu Tòa án có thẩm quyền chia tài sản chung sau khi ly  hôn với ông N. Bà Th yêu cầu chia đôi tài sản chung và được hưởng ½  giá trị tài sản, ông N là người nhận đất có trách nhiệm thanh toán cho bà  Th ½ giá trị tài sản.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định:

Tại Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 74/2022/HNGĐ-ST ngày  02/06/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đã  tuyên xử: 

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn bà Phạm  Thị Ngọc Th về việc tranh chấp chia tài sản chung sau ly hôn với bị đơn ông Trần Trọng N.

Ông Trần Trọng N được quyền sử dụng đất có diện tích 89,0m2, thuộc thửa đất số 2857, tờ bản đồ số 3DH.1 tọa lạc khu phố Tây B,  phường Đông Hòa, thị xã Dĩ An (nay là thành phố Dĩ An), tỉnh Bình Dương theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ024502, số vào sổ cấp giấy chứng nhận số CH07583 do Uỷ ban nhân dân thị xã Dĩ An  (nay là thành phố Dĩ An) cấp ngày 17/5/2014 cấp cho ông Trần Trọng  N, bà Phạm Thị Ngọc Th và 01 căn nhà 02 tầng có diện tích sàn 75,1m2.

Ông Trần Trọng N có trách nhiệm thanh toán cho bà Phạm Thị Ngọc Th 35% giá trị tài sản với tổng số tiền là 1.229.728.600 đồng.

Ngày 14/6/2022, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An có Quyết định kháng nghị số 03/QĐ-VKS-HNGĐ kháng nghị một phần Bản án sơ thẩm theo hướng giảm tỉ lệ chia tài sản cho N đơn.

* Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:

Về nội dung:

Xét kháng cáo của bị đơn ông Trần Trọng N: Nguyên đơn (bà Phạm  Thị Ngọc Th) và bị đơn (ông Trần Trọng N) là vợ chồng chung sống với nhau từ năm 2000 nhưng đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 74/2021/QĐSTHNGĐ ngày 05/02/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Quá trình chung sống về tài sản gồm có: quyền sử dụng đất có diện tích  89,0m2 thuộc thửa số 2857, tờ bản đồ số 3DH.1 tọa lạc khu phố Tây B,  phường Đông Hòa, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, trên đất gắn liền  là 01 căn nhà 02 tầng có diện tích sàn 75,1m2.

Tài sản chung hai bên thống nhất xác định: Nguồn gốc đất là do cha,  mẹ bị đơn (ông Trần Ngọc Đang và bà Đinh Thị Thu Phượng) cho bị đơn  vào năm 2002. Quá trình sử dụng nhà ở thì Nguyên đơn và bị đơn cùng sử dụng, quản lý nhà đất và có sửa chữa nhà. Việc bị đơn thống nhất làm thủ tục nhà, đất và để cho Nguyên đơn cùng đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thể hiện ý  chí của bị đơn đồng ý nhập khối tài sản chung nhà đất là tài sản chung của  Nguyên đơn và bị đơn. Từ khi nhận Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất bị đơn không khiếu nại hay  thắc mắc gì. Do đó căn cứ Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, thì tài sản tranh chấp trên là tài sản chung của Nguyên đơn và bị đơn trong thời kỳ hôn nhân.

Tài sản chung của hai bên được chia theo quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình. Do nguồn gốc nhà, đất do cha mẹ bị đơn tặng cho mà có và hiện nay bị đơn đang trực tiếp cùng 02 con (Trần Ngọc N và Trần Thư Th) sống trong căn nhà, đất tranh chấp; hơn nữa Nguyên đơn chỉ yêu cầu được nhận bằng giá trị tài sản (không yêu cầu nhận hiện vật) nên Tòa án sơ thẩm giao toàn bộ tài sản tranh chấp bằng hiện vật cho bị đơn sở hữu, sử dụng là có căn cứ. 

Về phía Nguyên đơn hiện nay cũng chưa có chỗ ở ổn định, phải thuê nhà trọ để ở, do đó Tòa án sơ thẩm đã xem xét hoàn cảnh cũng như công sức của các bên và chia cho Nguyên đơn 35% khối tài sản tranh chấp; chia cho bị đơn 65% khối tài sản tranh chấp. Bị đơn có nghĩa vụ thanh toán cho Nguyên đơn 35% giá trị khối tài sản tranh chấp tương ứng với số tiền là 1.229.728.6000 đồng là hợp lý và phù hợp với quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Nguyên đơn kháng cáo nhưng  không cung cấp được chứng cứ gì mới. Do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của N đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

* Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên xử:

- Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với Quyết định kháng nghị số 03/QĐVKS-HNGĐ ngày 14/6/2022 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Trần Trọng N: Giữ N Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 74/2022/HNGĐ-ST ngày  02/6/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 71/2022/HNGĐ-ST ngày 08 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

* Nội dung vụ án:

Anh Đỗ Văn Ch và chị Nguyễn Thị Minh L đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 163/2021/QĐST- HNGĐ ngày 29/12/2021 của Tòa án nhân dân huyện  Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Khi giải quyết ly hôn, anh Ch và chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết phân chia tài sản mà để tự thỏa thuận giải quyết với nhau. Nhưng từ sau khi ly hôn đến nay, anh và chị L không thỏa thuận giải quyết phân chia tài sản với nhau được. Toàn bộ tài sản hiện chị L vẫn đang quản lý không phân chia cho anh. Vì vậy, ngày anh Ch đã làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án có Thẩm quyền chia tài sản chung của hai anh chị sau khi ly hôn bao gồm tài sản là cả động sản và bất động sản.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định:

Về nội dung: Xét yêu cầu chia tài sản sau khi ly hôn của nguyên đơn, thấy: Anh Ch, chị L đã ký hợp đồng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 10, tờ bản đồ số 14, thôn Hà Lý, xã Hùng Dũng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Đối với thửa đất số 8, tờ bản đồ số 14, thôn  Hà Lý, xã Hùng Dũng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, mặc dù không có hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng chủ sử dụng thửa  đất số 8 là anh Đỗ Ngọc A và chị Đỗ Thị Á xác nhận đã chuyển nhượng cho anh Ch, chị L cùng thời điểm chuyển nhượng thửa đất số 10; hai bên không có tranh chấp và yêu cầu gì. Do đó, có căn cứ xác định thửa đất số 10 và thửa đất số 8 cùng toàn bộ tài sản trên đất là tài sản chung của anh Ch, chị L hình thành trong thời kỳ hôn nhân.

Hiện chị L đang quản lý sử dụng toàn bộ diện tích đất và tài sản trên đất. Diện tích đo đạc hiện trạng chênh lệch so với số liệu đo đạc năm 2006 là do có sự sai số khi đo đạc nên cần căn cứ số liệu đo đạc hiện trạng để giải quyết. Chị L yêu cầu chia tài sản cho cả 03 con chung nhưng không có cơ sở chấp nhận, bởi lẽ: 03 con chung đều còn nhỏ và việc chia tài sản chung của anh Ch, chị L không liên quan đến 03 con  chung của anh Ch, chị L.

Để đảm bảo quyền lợi của các đương sự, cần chia đôi diện tích đất bằng hiện vật cho anh Ch và chị L. Giao cho chị L quyền sử dụng và sở hữu phần diện tích đất ở và đất nuôi trồng thủy sản cùng tài sản trên phần đất được chia là ngôi nhà cấp 04 (nhà ở) và một phần ngôi nhà ngang cấp 4 (nhà kho); lán tôn, sân vườn, bờ ao, cây cối trên đất; giao cho anh Ch quyền sử dụng và sở hữu phần diện tích đất ở và đất nuôi  trồng thủy sản còn lại cùng tài sản trên đất là một phần ngôi nhà ngang cấp 4 (nhà kho); bếp, bể nước mưa, sân vườn, bờ ao, cây cối trên đất.  Việc thanh toán giá trị chênh lệch tài sản giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định:

Chấp nhận yêu cầu chia tài sản sau khi ly hôn của anh Đỗ Văn Ch. Xử chia mỗi bên sẽ được nhận hiện vật và Chị L phải có trách  nhiệm thanh toán giá trị chênh lệch tài sản cho anh Ch số tiền là 67.901.700 đồng làm tròn số 67.902.000 đồng. Anh Ch được quyền sở hữu số tiền do chị L thanh toán nêu trên.

4. Bản án Hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 13/2022/HNGĐ-PT ngày 15 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tại Thành phố Hồ Chí Minh.

* Nội dung vụ án:

Ông Bùi Trung H và bà Dương Thị N đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 28/2006/QĐST- HNGĐ ngày 04/8/2006 của Tòa án nhân dân huyện (nay là thị xã) Tân Uyên. Quá trình chung sống ông H và bà N đã được tặng cho và tạo lập đượng khối tài sản chung bao gồm: Một phần thửa đất số 47, tờ Bản đồ số 09 có diện tích 1.399 m2, tọa lạc tại: Ấp 2 (nay là ấp Điều Hòa), xã Bạch Đằng, huyện (nay là thị xã) Tân Uyên, tỉnh Bình Dương được cấp cấp Giấy chứng  nhận quyền sử dụng đất số AB 986522, số vào sổ H00044 ngày 06/6/2005; tài sản trên đất là căn nhà cấp 4 có diện tích 80m2 được xây dựng vào năm 1995 và đến năm 2007 thì bà N có sửa chữa nhà lại như  hiện nay. Vì lý do, khi ly hôn chưa chia tài sản chung nên nay ông H khởi kiện bà N yêu cầu Tòa án có thẩm quyền chia tài sản chung sau khi ly hôn đối với diện tích đất, căn nhà và tài sản gắn liền với đất nêu trên.

Theo đơn khởi kiện bổ sung: Ông H yêu cầu Tòa án xác định toàn bộ diện tích đất là tài sản riêng của ông H vì đây là đất ông H được thừa kế từ cha mẹ ông H. Đối với tài sản gắn liền trên đất là 01 căn nhà cấp 4 có diện tích 80m2 thì chia đôi cho ông H và bà N mỗi người một nửa. Ông H sẽ thanh toán giá trị căn nhà cho bà N.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định:

- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện chia tài sản chung sau ly hôn của ông Bùi Trung H đối với bị đơn bà Dương Thị N.

- Chia tài sản chung của ông Bùi Trung H, bà Dương Thị N là khu đất đo đạc thực tế có diện tích 1.550,9m2 (trong đó có 300m2 đất thổ cư) tọa lạc tại ấp Điều H, xã Bạch Đ, thị xã U, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 986522, số vào sổ H00044  ngày 6/6/2005 do Uỷ ban nhân dân huyện (nay là thị xã) Tân Uyên cấp  cho hộ ông Bùi Trung H, bà Dương Thị N (diện tích được cấp theo sổ là  1.399m2) như sau:

+ Ông H được chia phần đất phía Tây (được ký hiệu A trong sơ đồ bản vẽ kèm theo Bản án) có diện tích 702,2m2 (tương ứng 45,28%) trong đó có 150m2 đất thổ cư cùng toàn bộ tài sản gắn liền trên đất  (như cây bưởi, cây cảnh, hàng rào).

+ Bà N và chị Bạch Mai được chia phần đất phía Đông (được ký  hiệu B trong sơ đồ bản vẽ kèm theo Bản án) có diện tích 848,7m2 (tương ứng 54,72%) trong đó có 150m2 đất thổ cư, trên đất có 01 căn nhà cấp 4  có diện tích 77m2 (ngang 5,5 và dài 14m) và các công trình phụ như nhà  bếp, nhà vệ sinh, ki ốt, chuồng gà, cây trồng trên đất, hàng rào;

Ông H, bà M có quyền và nghĩa vụ liên hệ với cơ quan nhà nước có  thẩm quyền để đăng ký đối với diện tích đất và tài sản được chia theo  quyết định của bản án này.

+ Buộc bà Dương Thị N và chị Dương Thị Bạch Mai có nghĩa vụ liên đới thanh toán cho ông H 50% giá trị căn nhà chính là 66.682.000 đồng.

- Ngày 05/4/2022, ông Bùi Trung H kháng cáo một phần bản án sơ thẩm.

- Ngày 08/4/2022, các ông bà gồm Dương Thị N, Bùi Trung H4, Bùi Dương Trung H5, Bùi Dương Bạch M kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

- Ngày 084/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương có Quyết định số 38/2022/QĐKNPT-VKS-HNGĐ kháng nghị một phần bản án sơ thẩm.

* Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:

Xét thấy, mặc dù Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện việc thu thập chứng cứ về sự thay đổi về diện tích của phần đất tranh chấp so với diện tích được cấp giấy chứng nhận, nhưng kết quả thu thập chưa đủ căn cứ để giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, cần thiết phải thu thập hồ sơ cấp GCNQSDĐ; Áp thửa đất đo đạc thực tế với thửa đất trên bản đồ quản lý đất đai để xác định phần diện tích tăng thêm là nằm trong cùng  thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận, hay nằm trong phần thửa khác trên bản đồ quản lý đất đai. Nếu có diện tích nằm trong thửa đất khác (theo bản đồ quản lý đất đai) thì cần thiết phải thu thập ý kiến, lời trình bày của người đứng tên đăng ký kê khai phần đất, làm rõ phần diện tích này nằm ở vị trí nào của khu đất, có thuộc quyền sử dụng hợp pháp của  ông H, bà N hay là đất do Nhà nước quản lý. Bản án của Tòa án cấp sơ  thẩm chưa làm rõ những nội dung này, đã phân chia phần đất tranh chấp theo diện tích đo đạc thực tế là chưa đủ căn cứ vững chắc.

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 986522 là cấp cho hộ ông H, bà N. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm cần phải thu thập chứng cứ làm rõ Uỷ ban nhân dân huyện (nay là thị xã) Tân Uyên cấp giấy chứng  nhận quyền sử dụng đối với phần đất trên là cấp cho hộ gia đình gồm những ai, từ đó có cơ sở đưa họ vào tham gia tố tụng, cũng như giải quyết các yêu cầu của đương sự, nhưng cấp sơ thẩm chưa thực hiện là  thu thập chứng cứ chưa đầy đủ.

Đối với việc Tòa án cấp sơ thẩm xét xử vắng mặt ông Bùi Dương Trung H3: Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm nhận định: Năm 2013 ông H3 đã xuất cảnh sang Hoa Kỳ cùng bà N, nhưng hiện nay ông H3 đi đâu, làm gì thì bà N cũng như anh chị em của ông H3 không liên lạc được. Tòa án đã thực hiện các biện pháp để lấy ý kiến ông H3 nhưng không được, nên đã xét xử vắng mặt ông H3. Tuy nhiên, tại biên bản  xác minh ngày 19/12/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương với bà Bùi Dương Bạch M, bà M trình bày có liên lạc qua mạng xã hội và thông tin cho ông H3 về việc khởi kiện của ông H, nhưng ông H3 không có ý kiến.

Xét, căn cứ vào lời trình bày của bà M thì vẫn có thông tin liên lạc của ông H3. Tòa án cấp sơ thẩm chưa yêu cầu đương sự cung cấp địa chỉ cư trú của ông H3 để triệu tập tham gia tố tụng, nhưng đã xét xử vắng mặt ông H3 là chưa đủ cơ sở. Do vậy, để đảm bảo quyền lợi ích  hợp pháp của đương sự, thì Tòa án cần phải thu thập chứng cứ, xác  minh làm rõ địa chỉ cư trú của ông H3 khi giải quyết vụ án.

Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án cấp sơ thẩm thể hiện, ngoài phần tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân của ông H, bà N  thì trên phần đất tranh chấp có tài sản do vợ chồng bà M xây dựng. Nếu xác định phần công trình do vợ chồng bà M xây dựng nằm trong khối tài  sản chung của ông H, bà N thì ông H, bà N phải có nghĩa vụ trả lại giá trị cho bà M trước khi phân chia. Ngược lại, nếu xác định phần công trình này nằm ngoài tài sản chung của ông H, bà N thì không được phân  chia. Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm không nhận định làm rõ nội dung  này, mà chia chung cho bà N và bà M cùng nhận phần nhà, đất ở phía Đông, đồng thời buộc bà M có nghĩa vụ liên đới với bà N trả phần giá trị chênh lệch cho ông H, và bà M cùng chịu án phí dân sự sơ thẩm là giải quyết không chính xác, rõ ràng và gây khó khăn cho việc thi hành án. Hơn nữa, theo nhận định của cấp sơ thẩm thì bà M có công sức đóng  góp nhưng không nêu rõ công sức đóng góp của bà M là bao nhiêu, được tính như thế nào?

Tất cả đương sự đều trình bày phần công trình là do bà M và chồng là ông Nguyễn Văn T3 xây dựng. Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm không đưa ông Nguyễn Văn T3 (chồng bà M) vào tham gia tố tụng là có thiếu sót. Mặc dù, ngày 28/12/2021 ông T3 có đơn trình bày ý kiến nêu quan điểm không có ý kiến về nội dung tranh chấp, nhưng việc cấp sơ thẩm không xác định ông T3 là đương sự trong vụ án là gây ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của ông T3 theo quy định tại Điều 70, 73 Bộ luật  tố tụng dân sự năm 2015.

Mặt khác, theo văn bản trình bày về quốc tịch của bị đơn ngày 28/12/2021, bà M trình bày bà N hiện đang cư trú tại nước ngoài và chưa có quốc tịch Mỹ, nhưng cấp sơ thẩm chưa thu thập chứng cứ làm  rõ lời trình bày này của đương sự để xem xét bà N có thỏa mãn điều  kiện được sở hữu nhà đất tại Việt Nam là chưa đủ căn cứ để xem xét yêu  cầu của đương sự. Nhà, đất tranh chấp được nhận định tài sản chung của ông H, bà N, và hồ sơ vụ án không có tài liệu chứng cứ thể hiện bà N có tặng cho bà M phần tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Do vậy, phần quyết định của bản án sơ thẩm có nội dung: Bà M được quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền để đăng ký đối với diện tích đất và tài sản được  chia là không có căn cứ và không đúng quy định pháp luật.

Từ những phân tích trên, HĐXX phúc thẩm xét thấy, bản án của  Tòa án cấp sơ thẩm có những thiếu sót về tố tụng, thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, dẫn đến việc đánh giá chứng cứ không chính xác gây ảnh  hưởng việc giải quyết vụ án. Những thiếu sót này Tòa án cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do vậy, để đảm bảo quyền được 02 cấp xét xử cho các đương sự, HĐXX phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo  của đương sự và một phần kháng nghị của Viện trưởng VKSND tỉnh Bình Dương, hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án về cho Tòa án  cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

* Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm quyết định:

Chấp nhận một phần Kháng nghị số 38/2022/QĐKNPT-VKS HNGĐ ngày 08/4/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh  Bình Dương. Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông Bùi Trung H, bà Dương Thị N, ông Bùi Dương Trung H5, ông Bùi Trung H4 và bà Bùi  Dương Bạch M;

Tuyên xử: Hủy bản án sơ thẩm số 07/2022/HNGĐ-ST ngày  24/3/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương; Chuyển hồ sơ vụ án về cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo quy định pháp luật.

5. Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 136/2022/HNGĐ-ST ngày 29 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Tam Bình, tĩnh Vĩnh Long.

* Nội dung vụ án:

Bà Lê Thị H và ông Nguyễn Văn K kết hôn năm 2001, sau đó hai  vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống không giải quyết được nên đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 78/2020/QĐST- HNGĐ ngày31/03/2020 của TAND huyện B, tỉnh Vĩnh Long. Khi giải quyết ly hôn, bà H và ông K không yêu cầu Tòa án giải quyết phân chia tài sản mà để tự thỏa thuận  giải quyết với nhau. Sau đó, bà H và ông K thỏa thuận chia tài sản sau khi ly hôn nhưng ông Khoa không đồng ý. Do đó, bà H khởi kiện ông K yêu cầu Tòa án giải quyết: Chia tài sản nhà và QSDĐ tại các thửa đất số 50, 991, 204, 249, 248, 32; chia cho bà nhận hưởng ½ giá trị tài sản  bằng tiền, chia cho ông K nhận hưởng tài sản bằng hiện vật.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định:

Về nội dung:

Ngoài lời trình bày, ông K không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì khác để chứng minh phần đất tại thửa số 50 ông được cha mẹ tặng  cho riêng bằng giấy viết tay có trước khi kết hôn, căn nhà và cây trồng gắn liền với đất tại thửa đất số 50 hình thành trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng của ông. Nên ý kiến của ông K đề nghị Tòa án giải quyết cho ông được nhận hưởng toàn tài sản nhà, đất, cây trồng là không có  căn cứ. Việc bà H xác định tài sản nhà, đất, cây trồng tại thửa đất số 50 là tài sản chung của bà H, ông K hình thành trong thời kỳ hôn nhân, chưa chia khi ly hôn là có căn cứ.

Phần công sức đóng góp vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung nêu trên giữa bà H và ông K là như nhau; tài sản hiện ông K đang quản lý sử dụng; bà H có nhu cầu chia, yêu cầu được nhận  hưởng ½ giá trị bằng tiền, đồng ý giao tài sản bằng hiện vật cho ông K nhận hưởng là có căn cứ, phù hợp với nguyên tắc giải quyết chia tài sản  theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình.

Do đó, căn cứ vào khoản 1 và khoản 2 Điều 33, khoản 1 Điều 34, các khoản 1, 2 và 3 Điều 59, điểm c và điểm d khoản 2 Điều 62 Luật  Hôn nhân và gia đình; điểm k khoản 4 Điều 95 Luật Đất đai; Điều 357 Bộ luật Dân sự, Tòa án giải quyết chia QSDĐ diện tích 575,4 m2 (trong  đó đất ở 70 m2 và đất trồng cây lâu năm 505,4 m2) nằm trong chu vi các  mốc 1, 2, 3, 4, 5, 1 và TSGLVĐ gồm nhà ở diện tích 60,27 m2 và cây  cối trên đất, có tổng giá trị 145.581.752 đồng. Cụ thể như sau:

Chia cho bà H được nhận hưởng ½ giá trị tài sản bằng số tiền 72.790.876 đồng. Ông K phải có trách nhiệm thanh toán cho bà H nhận số tiền 72.790.876 đồng.

Chia cho ông K được nhận hưởng tài sản bằng hiện vật. Bà H phải có trách nhiệm giao lại Giấy chứng nhận phát hành số CI 90XX35 cho  ông K. Ông K có quyền và nghĩa vụ đăng ký QSDĐ đã được giải quyết  theo quy định của pháp luật về đất đai

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên xử:

Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện và ý kiến đề nghị của bà Lê Thị Mỹ H, chấp nhận một phần ý kiến đề nghị của ông Nguyễn Văn  K, chấp nhận ý kiến trình bày của anh Nguyễn Khánh D.

Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Mỹ H đã rút đối với yêu cầu chia tài sản là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 991, tờ bản đồ số 6, diện tích 1.720 m2, loại đất rẫy màu; thửa đất số 204, tờ bản đồ số 23, diện tích 2.095,2 m2, loại đất chuyên trồng lúa nước; thửa đất số 249, tờ bản đồ số 29, diện tích 654,7 m2, loại đất trồng cây lâu năm; thửa đất số 248, tờ bản đồ số 29, diện tích 672,4 m2, loại đất ở 300 m2 và đất trồng cây lâu năm 372,4 m2 và thửa đất số 32, tờ bản đồ số 29, diện tích 2.751,8 m2, loại đất chuyên trồng lúa nước, các thửa  đất cùng địa chỉ ấp T4, xã T5, huyện B, tỉnh Vĩnh Long.

Đối với các tài sản khác gồm xe mô tô biển số 64FA-0XX.39, xe mô  tô biển số 64E1-3XX.47, 13 (Mười ba) cây mai vàng trồng trên thửa đất số 50 và nghĩa vụ chung về tài sản: Do không có tranh chấp nên không xem xét, giải quyết.

6. Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 68/2022/HNGĐ-ST ngày 14 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa.

* Nội dung vụ án:

Bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Văn P trước kia là vợ chồng nhưng đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 100/2020/QĐST-HNGĐ ngày 28/8/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Cam Ranh. Theo quyết định này thì bà H và ông P tự thỏa thuận về chia tài sản nên Tòa án không xem xét. Nay, hai ông, bà không thỏa thuận được tài sản chung bao gồm: Quyền sử dụng  đất thửa đất số 87 (tờ bản đồ 91, diện tích đất 332,0m2, địa chỉ: tổ dân phố Nghĩa Cam, phường Cam Nghĩa, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CL 854512, số vào sổ cấp GCN: CH 08287 ngày 05/01/2018 cho ông Nguyễn Văn P và bà Nguyễn Thị H) và tài sản gắn liền với đất của thửa đất nêu trên. Do đó, Bà H làm đơn khởi kiện  ông P yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết chia tài sản nhà đất theo hướng chia hiện vật cho cả hai bên, ông P được nhận hiện vật lớn hơn thì có trách nhiệm thanh toán lại tiền cho bà H.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định:

Về nội dung tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện chia tài sản chung vợ chồng sau khi ly hôn đối với Quyền sử dụng thửa đất số 87, tờ bản đồ 91, diện tích đất 332,0 m2, địa chỉ: tổ dân phố Nghĩa Cam, phường Cam Nghĩa, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa. Trên đất có hàng rào B40, trụ bê tông bao quanh toàn bộ diện tích đất nhưng nguyên đơn không yêu cầu Tòa án phân chia nên Hội đồng xét xử không xét.

Theo định giá của Hội đồng định giá tại Biên bản định giá tài sản ngày 19/5/2022 thì diện tích đất tranh chấp có giá trị là 40.000.000 đồng/1m2, tổng giá trị tài sản tranh chấp là 13.280.000.000 đồng. Tại phiên tòa, nguyên đơn thống nhất giá trị tài sản tranh chấp nêu trên.

Diện tích đất 332,0m2, thửa đất số 87, tờ bản đồ 91, địa chỉ: tổ dân phố Nghĩa Cam, phường Cam Nghĩa, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa là tài sản chung của ông Nguyễn Văn P và bà Nguyễn Thị H trong thời kỳ hôn nhân nên được chia đôi. Bà Nguyễn Thị H yêu cầu phân chia làm hai phần đất là: Phần đất diện tích 142m2 có ký hiệu 87-2 và phần đất 190m2 có ký hiệu 87-1 (theo sơ đồ thửa đất kèm theo), việc  phân chia thành hai phần có ký hiệu như trên đủ điều kiện về diện tích tối thiểu để tách thửa, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Phần diện tích đất của ông Nguyễn Văn P lớn hơn (có giá trị lớn  hơn) của bà Nguyễn Thị H. Tuy nhiên, bà H không yêu cầu ông P phải thanh toán lại phần chênh lệch vì cho rằng giá trị của hai phần đất được  phân chia là bằng nhau, đây là sự tự nguyện của bà H nên được Hội  đồng xét xử chấp nhận.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Phân chia tài sản chung sau khi ly hôn của ông Nguyễn Văn P và bà Nguyễn Thị H đối với diện tích đất 332,0m2, thửa đất số 87, tờ bản  đồ 91, đất ở đô thị, thời hạn sử dụng: lâu dài, địa chỉ: tổ dân phố Nghĩa Cam, phường Cam Nghĩa, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa đã được UBND thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với  đất số CL 854512, số vào sổ cấp GCN: CH 08287 ngày 05/01/2018.

Giao cho bà Nguyễn Thị H được sử dụng phần đất diện tích 142m2 có ký hiệu 87-2 (theo sơ đồ thửa đất kèm theo Bản án); Giao cho ông Nguyễn Văn P được sử dụng phần đất diện tích 190m2 có ký hiệu 87-1 (theo sơ đồ thửa đất kèm theo Bản án).

Nguyên đơn, bị đơn được quyền liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được chỉnh lý, cập nhật biến động vào hồ sơ địa chính hoặc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản  khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật.

7. Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 52/2022/HNGĐ-ST ngày 28  tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận C, thành phố Cần Thơ.

* Nội dung vụ án:

Bà Nguyễn Thị Ngọc N và ông Trần Văn P có đăng ký kết hôn tại UBND phường B, quận C vào ngày 15/5/2009. Năm 2016, bà N và ông P đã thuận tình ly hôn theo Quyết định số 59/2016/QĐST-HNGĐ ngày  8/6/2016 của Toà án Nhân dân quận Cái Răng, trong đó vấn đề tài sản chung do vợ chồng tự thỏa thuận. Tuy nhiên, sau khi ly hôn ông P và bà N không tự thỏa thuận được vấn đề chia tài sản chung. Sau khi ly hôn thì ông P có thế chấp chứng nhận QSD đất CH01601 để vay số tiền 50.000.000 đồng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - chi nhánh quận C, số nợ này là nợ riêng của ông P. Nay bà N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn theo hướng theo hướng chia đôi tài sản và yêu cầu được nhận  ½ giá trị tài sản.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định:

Xét yêu cầu của nguyên đơn:

Về tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của bà Nguyễn Thị Ngọc N và ông Trần Văn P bao gồm là nhà và đất tại thửa đất số 118, tờ bản đồ số 18, diện tích 249,2m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02794, cấp ngày 09/8/2014 điều chỉnh sang tên bà Võ Thị Thu Hà vào ngày 06/12/2016; thửa đất số 201, tờ bản đồ số 18, diện tích đất 627,9m2, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH01601 cấp ngày 14/5/2012 cho ông Trần Văn P, các thửa đất này tọa lạc tại khu vực T, phường B, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ.

Quá trình tố tụng cũng N tại phiên tòa, bà N thống nhất với kết quả thẩm định, định giá tài sản của Công ty Cổ phần thẩm định - Giám định Cửu Long. Thửa đất số 118 diện tích 249,2m2, tạm tính giá trị là 3.445.719.600 tỷ đồng, bà N yêu cầu được nhận ½ giá trị là 1.722.859.800 đồng, thửa đất 201 diện tích 627,9m2, tạm tính giá trị là 3.506.821.500 đồng, bà N yêu cầu được nhận ½ giá trị là 1.753.410.750 đồng, bà N không yêu cầu chia tài sản là căn nhà trên đất, Hội đồng xét  xử nhận định: 

Xét về nguồn gốc đất thì các đương sự đều thống nhất nguồn gốc của hai thửa đất trên đều do ông Trần Văn Xiêm, bà Võ Thị Thu Hà (là cha mẹ ruột của ông P) tặng cho. Căn cứ tài liệu trích lục thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa 118 chỉnh lý cho ông Trần Văn P là do ông Xiêm và bà Hà tặng cho ông P vào ngày 13/5/2013, hợp đồng sửa đổi, bổ sung ngày 04/7/2014; thửa đất 249 do hộ ông Xiêm và bà Hà tặng cho ông P vào ngày 04/4/2012, thời điểm tặng cho đất thì ông P và bà N vẫn còn tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về tài sản được tặng cho riêng vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân thì thuộc quyền sở hữu riêng của vợ, chồng.

Xét thấy, theo nội dung của 02 hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất nêu trên chỉ thể hiện việc tặng cho đất ông P, không đề cập đến vợ chồng ông P. Bà Hà, ông Xiêm, ông Thành đều có ý kiến xác định thời điểm tặng cho đất là chỉ tặng cho ông P. Mặt khác, tài sản mà bà N yêu cầu chia là tài sản phải đăng ký quyền sử dụng theo quy định, nếu là sở hữu chung phải được thể hiện trên giấy chứng nhận quyền sỡ hữu tài sản nhưng theo hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của 02 thửa đất nêu trên chỉ thể hiện tên chủ sử dụng là ông P.

Ngoài ra, quá trình hôn nhân ông P và bà N cũng không có văn bản nào thỏa thuận để tài sản này được coi là tài sản chung của vợ chồng. Nhận thấy, các tài sản này tuy có trong thời ký hôn nhân nhưng là được tặng cho riêng thông qua các hợp đồng tặng cho nên có căn cứ xác định  đây là tài sản riêng của ông P. Bà N cho rằng cha mẹ chồng tặng cho đất là cho chung vợ chồng và bà có mua đất của cha mẹ chồng nhưng không có chứng cứ chứng minh nên yêu cầu khởi kiện của bà N không có căn  cứ chấp nhận.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên xử:

- Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc N. 

- Về chi phí xem xét thẩm định và trưng cầu giá: Nguyên đơn phải chịu số tiền 24.380.000 đồng. Nguyên đơn đã nộp và chi xong.

8. Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 14/2022/HNGĐ-ST ngày 27 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông.

* Nội dung vụ án:

Bà Phan Thị L và ông Hoàng Khắc H có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Quảng Thành (nay là phường Quảng Thành) vào năm 2000,  đến năm 2011 do không hòa hợp nên bà L và ông H ly hôn theo quyết định số 53/2011/QĐ-HNGĐ ngày 18/11/2011. Khi ly hôn, về tài sản chung hai ông bà không thỏa thuận chia tại Tòa án và cũng không thỏa thuận bằng văn bản tại bất cứ cơ quan nào.

Bà L và ông H có thỏa thuận bằng miệng và chia tài sản chung trên thực tế bằng tiền và mỗi người người được cấp GCNQSDĐ cho 01 thửa đất tọa lạc tại thôn Tân Hòa, xã Đắk R’Moan, thị xã Gia Nghĩa (thành  phố Gia Nghĩa), tỉnh Đắk Nông. Như vậy, tất cả các tài sản của ông H và bà L đều được chia đôi mỗi người một nửa. Nhưng tại thời điểm thỏa thuận chia tài sản giữa bà L với ông H thì chưa chia thửa đất tái định cư  do hai ông bà bị Nhà nước thu hồi 20.806m2 đất (tài sản chung trong  thời kỳ hôn nhân) năm 2008. Ông H đã không thông báo cho bà L một  mình hoàn tất các thủ tục nhận Thửa đất tái định cư và được cấp lô H15, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên Hoàng Khắc H tại Văn  phòng đăng ký đất đai. Theo bà L thì thửa đất số H15 là tài sản chung  của bà L và ông H chưa chia. Nay bà L khởi kiện ông H yêu cầu Tòa án  chia đôi thửa đất số H15, nếu ông H đã chuyển nhượng cho người khác  thì bà L không đồng ý. Nếu ông H muốn lấy tiền thì bà đưa cho ông H 100 triệu đồng để bà L lấy lô H15. 

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định:

Xét nội dung yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị L:

Bà L xác định lô H-15 cấp cho ông Hoàng Khắc H có nguồn gốc được cấp tái định cư khi thu hồi đất làm thủy điện Đắk R’Tih vào năm 2008.  Diện tích đất thu hồi là 20.806m2 đất có nguồn gốc là tài sản chung của bà  L và ông H trong thời kỳ hôn nhân. Xét lời khai của bà L là phù hợp với lời khai của ông H tại phiên tòa, phù hợp với quá trình sử dụng đất của ông H, bà L trong thời kỳ hôn nhân. Mặc dù không có văn bản thỏa thuận nhưng  qua việc ông H bà L thỏa thuận chia tài sản khi ly hôn thì thấy rằng ông bà  đã chia tài sản theo nguyên tắc chia đôi tài sản chung.

HĐXX nhận thấy tại Biên bản lấy lời khai ngày 21 tháng 6 năm  2021 ông H khai “thu một phần thửa của tôi và một phần của thửa đất của chị L. Khi đo đạc thu hồi tôi và chị L đã đăng ký kết hôn. Khi thỏa thuận tôi có nói với chị L là chọn lấy đất hay lấy tiền để tôi bán đi nhưng chị L không đồng ý cứ kéo dài nên tôi đã bán cho người khác tên  H1 với số tiền là 100.000.000đồng, ở tổ 8, phường Nghĩa Phú, thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông”. Căn cứ vào hồ sơ thu hồi đất mà Tòa án thu  thập được tại Quyết định số 1507/QĐ-UBND ngày 13/10/2021 của UBND tỉnh Đắk Nông có nội dung “3. Số lô tái định cư: 12 lô, gồm có  10 lô tái định cư theo diện tích đất ở, nhà ở bị giải tỏa và 02 lô tái định  cư theo diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi trên 1.000m2.

Bảng tổng hợp giá trị bồi thường, hỗ trợ và tái định cư bố sung có  số thứ tự 3. Hoàng Khắc H, hạng mục lòng hồ 2.2 Đắk R’Moan, nhà cửa, vật kiến trúc đã thể hiện do thu hồi dự án lòng hồ thủy điện với  số đất bị thu hồi trên 1.000m2 (20.806m2) nên ông H, bà L mới được cấp đất tái định cư. Đối chiếu với lời khai của ông H, bà L thể hiện đất  thu hồi là cả đất riêng của ông H, đất riêng của bà L và đất chung của  ông bà trong thời kỳ hôn nhân. Mặc dù cả ông H và bà L đều xác định  ông và bà không nhập khẩu cùng nhau trong thời kỳ hôn nhân nhưng cả ông H và bà L đều thừa nhận khi thu hồi đất thì ông H và bà L là vợ chồng. Ông H và bà L nhận tiền thu hồi và cùng nhau mua thửa đất  khác, phần đất còn lại sau khi thu hồi ông H, bà L kê khai đứng tên  chung. Do đó, cần khẳng định thửa đất H-15 là tài sản chung của ông H  bà L trong thời kỳ hôn nhân chưa chia.

Theo Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình 2000, tài sản chung của vợ chồng được quy định như sau: “ … Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà  vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.”

Kết quả xem xét thẩm định ngày 27/5/2021 xác định lô đất tái định cư H15 tọa lạc tại thôn Tân H1, xã Đắk R’Moan, thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông có tứ cận như sau: Phía Đông giáp đất lưu không tại khu tái định cư, phía Tây giáp đường nhựa số 1, phía Nam giáp lô 16, phía Bắc giáp lô 14, trên thửa đất tái định cư H-15 không có tài sản gì. Theo kết quả định giá tài sản tranh chấp xác định giá trị thửa đất là  661.200.000 đồng. Theo công văn số 280/CNVPĐKĐĐTTLT ngày 28/7/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thể hiện lô H-15  chưa được cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Hoàng Khắc H.

Tại phiên tòa bà L đồng ý chỉ nhận 300.000.000 đồng và đồng ý để lại cho ông H số tiền 61.200.0000 đồng là tiền thuế, yêu cầu này của bà  L là hoàn toàn phù hợp và có lợi cho phía ông H nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

Từ những phân tích trên Hội đồng xét xử xác định: Lô đất tái định  cư H-15 tọa lạc tại thôn Tân H1, xã Đắk R’Moan, thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông có tứ cận như sau: Phía Đông giáp đất lưu không tại khu  tái định cư, phía Tây giáp đường nhựa số 1, phía Nam giáp lô 16, phía Bắc giáp lô 14 là tài sản chung của ông Hoàng Khắc H và bà Phan Thị L  chưa chia, tài sản có giá trị định giá là 661.200.000 đồng.

Chấp nhận yêu cầu của bà Phan Thị L, buộc ông Hoàng Khắc H phải  trả cho bà Phan Thị L số tiền 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng).

Giao cho ông Hoàng Khắc H quyền sử dụng lô đất tái định cư H-15 tọa lạc tại thôn Tân H1, xã Đắk R’Moan, thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông có tứ cận như sau: Phía Đông giáp đất lưu không tại khu tái định  cư, phía Tây giáp đường nhựa số 1, phía Nam giáp lô 16, phía Bắc giáp lô 14.

Đối với ông Nguyễn Văn H1 là người mua bán viết tay với ông Hoàng Khắc H đối với tài sản tranh chấp. Quá trình giải quyết vụ án ông H1 không có yêu cầu độc lập, nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Đối với bà Hoàng Thị Qu là vợ ông Hoàng Khắc H không liên quan  đến tài sản tranh chấp. Quá trình giải quyết vụ án bà Qu không có yêu cầu độc lập, nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ nên cần chấp nhận.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị L đối với ông Hoàng Khắc H: 

Lô đất tái định cư H-15, tờ bản đồ độc lập, diện tích 240m2 thuộc  khu tái định cư Thủy điện Đắk R’Tih, tọa lạc tại thôn Tân H1, xã Đắk R’Moan, thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông có tứ cận như sau: Phía Đông giáp đất lưu không tại khu tái định cư, phía Tây giáp đường nhựa số 1, phía Nam giáp lô 16, phía Bắc giáp lô 14 là tài sản chung của ông  Hoàng Khắc H và bà Phan Thị L chưa chia có giá trị định giá là  661.200.000đ (sáu trăm sáu mươi mốt triệu hai trăm nghìn đồng).

Giao cho ông Hoàng Khắc H quyền sử dụng lô đất tái định cư H 15, tờ bản đồ độc lập, diện tích 240m2 thuộc khu tái định cư Thủy điện  Đắk R’Tih, tọa lạc tại thôn Tân H1, xã Đắk R’Moan, thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông có tứ cận như sau: Phía Đông giáp đất lưu không  tại khu tái định cư, phía Tây giáp đường nhựa số 1, phía Nam giáp lô  16, phía Bắc giáp lô 14.

Buộc ông Hoàng Khắc H phải trả cho bà Phan Thị L số tiền 300.000.000 đồng.

9. Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 210/2022/HNGĐ-ST ngày 15 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.

* Nội dung vụ án:

Anh Nguyễn M và Chị Hồ Thị N trước đây là vợ chồng nhưng đã ly hôn theo quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 96/2021/QĐSTHNGĐ ngày 18/6/2021. Tại quyết định  ly hôn về phần tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong thời kỳ hôn nhân anh M và chị N có tạo lập được khối tài sản chung là  căn nhà xây dựng năm 2017 trên diện tích đất của ông Hồ P (cha chị Hồ Thị N) cho tại thửa đất số 186, tờ bản đồ số 14 thuộc phường A nhưng  chưa thực hiện thủ tục tặng cho thì thửa đất trên thuộc diện giải tỏa để làm đường. Theo Bảng tính giá trị bồi thường, hỗ trợ ngày 05/02/2021 thì giá trị bồi thường, hỗ trợ là 264.838.400 đồng và được hỗ trợ để mua lô đất tái định cư. Do hai bên không thống nhất được việc ai là người có  quyền mua lô đất tái định cư nên chưa nhận Quyết định bồi thường và  chưa nhận tiền. Nay anh M khởi kiện chị N yêu cầu Tòa án giải quyết  theo hướng chia đôi tài sản và yêu cầu được nhận ½ giá trị tài sản.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định:

Về nội dung: xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy

- Đối với yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng tại lô đất bố trí tái định cư theo dự án “đường N và KDC hai bên đường”; Tại phiên Tòa ông Nguyễn M rút yêu cầu, việc rút yêu cầu của ông M là hoàn toàn tự nguyện nên Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với yêu cầu này; quyền khởi kiện lại của đương sự được thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Đối với yêu cầu chia tài sản chung là ngôi nhà đã được tính giá trị bồi thường, hỗ trợ là 264.838.400 đồng tại Quyết định số 7190/QĐ UBND ngày 10/11/2021 của UBND thành phố T và Bản tính giá trị bồi  thường, hỗ trợ ngày 05/02/2021 thì thấy: theo lời khai của ông M, bà N thì và về nguồn gốc của phần nhà kho trên cơ sở các chứng cứ có tại hồ sơ vụ án thể hiện ông Hồ P tự xây dựng cho con gái là Hồ Thị N năm  2017, có Quyết định xử phạt vi phạm hành chính năm 2017.

Như vậy, có cơ sở xác định phần nhà kho giá trị 72.921.840 đồng là tài sản chung của vợ chồng ông Hồ P, bà Nguyễn Thị Thùy T có trước  khi ly hôn nên có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Hồ P; 

Do đó, Hội đồng xét xử xác định trong tổng số tiền 264.838.400 đồng này, ông Hồ P và bà Nguyễn Thị Thùy T được nhận 72.921.840 đồng, ông Nguyễn M được nhận 95.907.950 đồng, bà Hồ Thị N được nhận 95.907.950 đồng. Số tiền 72.921.840 đồng ông P và bà T tự nguyện cho  bà Hồ Thị N nhận nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện thỏa  thuận này của các đương sự. 

- Đối với yêu cầu chia tài sản chung là giá trị ngôi nhà tại khối phố H, phường H2, thành phố T của bà N, ông M thống nhất: do nhà làm trên đất của cha mẹ ông M nên giao ngôi nhà này cho ông M sử dụng và ông M có nghĩa vụ thối trả cho bà N ½ giá trị.

Tại chứng thư Thẩm định giá thể hiện giá thị trường của tài sản là  146.045.000 đồng gồm: công trình xây dựng trên đất 145.595.960 đồng và cây trồng trên đất là 450.000 đồng. Do vậy, ông M phải thối trả cho bà N 73.022.500 đồng.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện về việc “Tranh chấp chia  tài sản chung sau khi ly hôn” của ông Nguyễn M và bà Hồ Thị N; Chấp  nhận yêu cầu độc lập của ông Hồ P.

10. Bản án Hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 29/2022/HNGĐ-PT ngày 21 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau.

* Nội dung vụ án:

Bà Nguyễn Thị T và ông Hoàng Thế C trước đây là vợ chồng nhưng đã ly hôn đầu năm 2021 nhưng vẫn còn phần tài sản chung chưa chia là 02 suất tái định cư tại phường Tân Thành, thành phố C do chưa hoàn thiện về mặt thủ tục pháp lý nên chưa giải quyết (hiện nay 01 suất  nền tái định cư đã chuyển nhượng cho bà B số tiền 720.000.000 đồng;  còn 01 nền tái định cư bà B nhận và đứng tên tại lô 83 khu BD 9 thuộc khu dân cư Happy Home do công ty S268 làm chủ đầu tư). Nay Bà T  khởi kiện ông C yêu cầu Tòa án chia ½ số tiền bán nền cho bà B là 360.000.000 đồng và yêu cầu được nhận nền tái định cư lô 83 khu BD 9 do bà B đã nhận nền và bà đồng ý hoàn lại ông C số tiền 200.000.000 đồng,  ngoài ra bà không còn yêu cầu gì khác.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T. 

Công nhận nền tái định cư lô số 83 khu BD 9 diện tích 100m2 tại  thửa đất 237, tờ bản đồ số 38 tại dự án nhà ở thương mại an sinh (Happy Home) là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân giữa Bà Nguyễn Thị T và ông Hoàng Thế C.

Bà Nguyễn Thị T được nhận nền. Buộc bà Tô Thị B có nghĩa vụ chuyển giao trả cho bà Nguyễn Thị T. Bà T được quyền liên hệ các cơ  quan có thẩm quyền về đất đai để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận  quyền sử dụng đất theo quy định.

Công nhận số tiền 700.000.000 đồng là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân giữa Bà Nguyễn Thị T và ông Hoàng Thế C. Bà  Nguyễn Thị T được chia ½ số tiền 700.000.000 đồng từ việc ông Hoàng Thế C chuyển nhượng cho bà Nguyễn Ngọc B 02 xuất tái định cư. Bà Nguyễn Thị T được nhận số tiền 350.000.000 đồng. 

Ông Hoàng Thế C được chia ½ số tiền 700.000.000 đồng từ việc ông chuyển nhượng cho bà Nguyễn Ngọc B 02 suất tái định cư. Ông Hoàng Thế C được nhận số tiền 350.000.000đ, hiện ông C đang quản lý số tiền này nên tiếp tục được quản lý mà không đặt ra việc hoàn trả. Ông  Hoàng Thế C được chia ½ giá trị nền nhà với số tiền là 242.500.000 đồng.

Bà Nguyễn Thị T có nghĩa vụ hoàn trả cho ông Hoàng Thế C số tiền  242.500.000 đồng khi bản án có hiệu lực.

Không chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị T yêu cầu chia phần  tài sản chung đối với ông Hoàng Thế C số tiền chênh lệch là 20.000.000 đồng.

Ngày 07/6/2022 bị đơn ông Hoàng Thế C kháng cáo, yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ khởi kiện của bà T.

Ngày 07/6/2022 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Tô Thị B  kháng cáo, yêu cầu không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn  về việc yêu cầu bà giao trả nền tái định cư lô số 83 khu BD 9 diện tích 100m2 tại thửa đất 237, tờ bản đồ số 38 tại dự án nhà ở thương mại an sinh phường Tân Thành, thành phố C.

* Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:

- Nhận thấy, bà T ông C đều xác nhận nguồn gốc số tiền 700.000.000 đồng có được từ bán việc hai suất nền tái định cư cho bà B vào tháng 6/2019; hai lô đất nền tái định cư là do ông C, L đứng tên sau đó ủy quyển lại cho ông C. Tuy nhiên, lời trình bày của ông C được chứng  minh đó là: sự thật thời kỳ hôn nhân hai đương sự mua 01 công đất nông nghiệp tại khóm 1, phường Tân Thành, thành phố C và tại bản án ly  hôn, phân chia tài sản thì bà T nhận 01 công đất này; bà T có bị bệnh trầm cảm được khai nhận tại bản án ly hôn trước đây và tại phiên tòa phúc thẩm bà T xác nhận bị bệnh từ năm 2014 và phải điều trị dài hạn; ông C có cung cấp biên lai rút tiền 305.000.000 đồng tại Ngân hàng ngày 11/10/2019 và tại bản án ly hôn số 08/2021 thể hiện ông C, bà T vay vốn 01 tỷ đồng phải đóng lãi Ngân hàng khoảng 8 triệu đồng/tháng; như vậy, Số tiền 700.000.000 đồng phát sinh trong thời kỳ hôn nhân và thực tế khi chưa ly hôn vợ chồng đã chi những khoản như ông C trình bày trên là phù hợp với chứng cứ có trong hồ sơ.

Theo quy định tại Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình “Vợ, chồng  có quyền, nghĩa vụ thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu  của gia đình”, nhận thấy theo như ông C trình bày thì những khoản chi nhằm mang lại lợi ích chung cho gia đình và cá nhân bà T, ông C. Nếu như số tiền 700.000.000 đồng còn tồn tại thì tại sao tháng 01 năm 2020 bà T gửi đơn đến Tòa án yêu cầu ly hôn, chia tài sản bà T lại không đặt ra để chia số tiền 700.000.000 đồng, theo như bà T trình bày tại phiên tòa sơ  thẩm ngày 20/5/2022 có nội dung: trong vụ án ly hôn mà Tòa án thụ lý  năm 2020, xét xử năm 2021 thì bà T có đặt ra yêu cầu chia tài sản này, nhưng do ông C giữ biên nhận nên bà rút lại đơn yêu cầu. Lời trình bày này của bà T không đúng sự thật, vì Tòa án ấn định cho bà thời gian nộp  đơn yêu cầu nhưng bà không thực hiện.

Như vậy, số tiền 700.000.000 đồng phát sinh trong thời kỳ hôn nhân  nhưng ly hôn các đương sự không đặt ra để phân chia; với phân tích trên, Hội đồng xét xử không có căn cứ buộc ông C đang sở hữu số tiền này, cho nên không thể buộc ông C phải chia cho bà T ½.

- Xét kháng cáo của ông C đối với nền nhà bà B nhận sang nhượng từ Công ty 268 không phải là tài sản chung: Theo như lời khai của bà B, và các chứng cứ trong hồ sơ vụ án thì bà B ủy quyền cho C, T nhận tiền  bồi thường và nhận nền tái định cư, khi chính sách thay đổi, không được nhận nền nhà tái định cư thì bà B chấm dứt việc ủy quyền và bà B đã nhận tiền bồi thường giao đủ cho ông C. Ngày 19/4/2021, Bà B và Công  ty 268 ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, điều khoản thể hiện sau khi bàn bạc và thống nhất, hai bên đã thỏa thuận và tự nguyện  ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, giá chuyển nhượng 485.000.000 đồng là tiền của bà B chứ không phải tiền của ông C, bà T. Sau đó bà B đã sang bán cho người khác. Do vậy, không có cơ sở để xác nhận nền nhà bà B mua từ Công ty 268 là tài sản chung của bà T, ông C là phù hợp với lời khai của bà T thể hiện trong hồ sơ vụ án. Với những chứng cứ nêu trên, bà T không đưa ra được căn cứ pháp lý để chứng minh nền nhà là tài sản chung. Vì vậy, kháng cáo của ông C về nền nhà bà B mua từ Công ty không phải là tài sản chung của bà T và ông C là có căn cứ, được chấp nhận.

- Đối với số tiền nhận bồi thường 95.000.000 đồng, bà B nhận tháng  4/2021 giao đủ cho ông C. Theo như ông C trình bày, thời điểm này vợ chồng đã ly hôn và theo ông thì 95.000.000 đồng là tài sản riêng của ông, vì thời kỳ hôn nhân tài sản tạo lập được chủ yếu phát sinh từ tài sản riêng của ông mà có và bản án ly hôn, chia tài sản năm 2021 ông C đã ưu tiên chia cho bà T 30% giá trị tài sản hình thành từ tài sản riêng của  ông. Tuy nhiên, vì tình nghĩa ông tự nguyện chia cho bà T ½ số tiền bằng 47.500.000 đồng; xét thấy, đây là sự tự nguyện của ông C, được chấp nhận.

- Xét kháng cáo của bà B yêu cầu không chấp nhận khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bà B giao trả nền nhà thuộc lô số 83 khu BD 9  diện tích 100m2 tại thửa đất 237, tờ bản đồ số 38 tại phường Tân Thành, thành phố C. Nội dung kháng cáo của bà B cùng với nội dung kháng cáo của ông C đã được nhận định nêu trên thì nền nhà bà B nhận chuyển nhượng từ Công ty 268 không phải là tài sản chung của bà T và ông C.  Cho nên kháng cáo của bà B được chấp nhận.

Từ nhận định trên, chấp nhận toàn bộ kháng cáo của ông C, bà B;  sửa bản án sơ thẩm như ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

* Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên xử:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T. Bà Nguyễn Thị T được chia ½ của số tiền 95.000.000 đồng từ việc ông Hoàng Thế C nhận bồi hoàn từ bà Tô Thị B giao. Bà Nguyễn Thị T được nhận số tiền 47.500.000 đồng từ ông C giao. Ông Hoàng Thế C có  trách nhiệm giao cho bà Nguyễn Thị T số tiền 47.500.000 đồng.

Trên đây là danh sách 10 bản án hôn nhân gia đình có tranh chấp về tài sản là quyền sử dụng đất. Nhằm mang lại dịch vụ pháp lý tốt nhất cho khách hàng, mọi thắc mắc cần giải đáp thêm khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi theo thông tin phía dưới.

          Công ty Luật TNHH MTV DB (DB Legal) là Công ty Luật Việt Nam cung cấp các dịch vụ pháp lý uy tín, chuyên nghiệp. Với đội ngũ nhân sự trách nhiệm, có chuyên môn cao, DB Legal là đối tác tin cậy cho khách hàng cá nhân và doanh nghiệp trong các vấn đề pháp lý tại Việt Nam.

Để biết thêm thông tin chi tiết vui lòng liên hệ với chúng tôi

Local Office Numbers:
Hotline/Zalo/Whatsapp: +84 357 466 579
Email: contact@dblegal.vn

Liên hệ

Địa chỉ 1: Tầng 3, Tòa nhà Indochina Riverside Tower, 74 Bạch Đằng, Quận Hải Châu, Thành phố Đà Nẵng, Việt Nam

Địa chỉ 2: 28 Thanh Lương 20, Phường Hòa Xuân, Quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng

Hotline 1: (+84) 357 466 579

Hotline 2: (+84) 985 271 242

Điện thoại: (+84) 236.366.4674

Email: contact@dblegal.vn

zalo
facebook