[2025] Tổng Quan Chương Đầu Tư của Hiệp định CPTPP: Cẩm Nang Cho Nhà Đầu Tư
Tìm hiểu tổng quan về Chương Đầu tư Hiệp định CPTPP năm 2024. Bài viết bao gồm các nguyên tắc đối xử, phạm vi áp dụng, cam kết mở cửa thị trường và giải quyết tranh chấp đầu tư.
Mục lục:
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) là một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, mang lại nhiều cơ hội đầu tư cho các quốc gia thành viên, trong đó có Việt Nam. Chương Đầu tư trong CPTPP đóng vai trò quan trọng trong việc tạo dựng một môi trường đầu tư minh bạch, thuận lợi và bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư. Bài viết này sẽ cung cấp một tổng quan về Chương Đầu tư của Hiệp định CPTPP, giúp nhà đầu tư và những người quan tâm nắm bắt được những nội dung cốt lõi.
Chương Đầu tư của Hiệp định CPTPP tập trung vào hai nhóm nội dung chính, tạo nên khung pháp lý vững chắc cho hoạt động đầu tư:
I. Hai nhóm nội dung chính của Chương Đầu tư:
Chương này bao gồm 02 nhóm nội dung chính:
- Các nguyên tắc chung trong đối xử của nước nơi nhận đầu tư trong CPTPP với nhà đầu tư đến từ các nước CPTPP khác: Các nguyên tắc (tiêu chuẩn ứng xử) này có thể được xếp thành 02 nhóm: một là các nguyên tắc mở cửa và bảo hộ đầu tư nói chung, hai là các nguyên tắc bảo đảm các quyền lợi cơ bản của nhà đầu tư. Chương này cũng nêu các ngoại lệ đối với các nguyên tắc này (trong đó có những hạn chế về mở cửa thị trường).
- Các cam kết liên quan tới thủ tục giải quyết tranh chấp đầu tư giữa Nhà đầu tư nước ngoài với Nhà nước nơi nhận đầu tư trong CPTPP
Để hiểu rõ hơn về phạm vi và đối tượng áp dụng của Chương Đầu tư, chúng ta cần xem xét các quy định cụ thể về phạm vi áp dụng:
II. Phạm vi áp dụng của Chương Đầu tư Hiệp định CPTPP:
Phạm vi áp dụng
Các cam kết trong Chương Đầu tư (ngoại trừ một số cam kết được nêu rõ phạm vi khác) đều chỉ áp dụng cho nhà đầu tư và Khoản đầu tư của nhà đầu tư đến từ các nước Thành viên CPTPP khác. Đối với Việt Nam thì phạm vi này được hiểu như sau:
- Nhà đầu tư CPTPP được hiểu là nhà đầu tư (Nhà nước, doanh nghiệp hoặc công dân) của một nước CPTPP khác đang hoặc đã thực hiện đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, trường hợp nhà đầu tư CPTPP nhưng thuộc các trường hợp sau đây sẽ bị loại trừ, không được hưởng các quyền theo CPTPP:
+ được sở hữu hoặc kiểm soát bởi một Nhà nước, tổ chức hay cá nhân của một nước không phải thành viên CPTPP
+ được sở hữu hoặc kiểm soát của tổ chức, cá nhân Việt Nam
+ không có hoạt động kinh doanh đáng kể ở bất kỳ nước CPTPP nào ngoại trừ Việt Nam
- Khoản đầu tư của nhà đầu tư CPTPP được hiểu là bất kỳ khối tài sản nào mà nhà đầu tư CPTPP sở hữu hoặc kiểm soát một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, có tính chất đầu tư (bao gồm các đặc tính như cam kết dành một khoản vốn, với mục đích thu lợi nhuận và suy đoán là có rủi ro) ở Việt Nam. Khoản đầu tư này bắt buộc phải tồn tại tại hoặc sau thời điểm CPTPP có hiệu lực với Việt Nam. Như vậy với các khoản đầu tư của các nhà đầu tư CPTPP đã thực hiện nhưng đã kết thúc hoặc chấm dứt trước khi CPTPP có hiệu lực với Việt Nam sẽ không được hưởng các quyền theo quy định của CPTPP.
III. Mở cửa đầu tư:
Một điểm đặc biệt của CPTPP là cơ chế mở cửa thị trường đầu tư theo phương thức chọn-bỏ, khác biệt so với WTO:
Cam kết mở cửa thị trường đầu tư theo phương thức chọn-bỏ:
Trong CPTPP, các Thành viên cam kết mở cửa đầu tư theo phương thức chọn-bỏ (khác với phương thức mở cửa kiểu chọn-cho trong WTO). Theo Chương 9 này, các Thành viên cam kết sẽ mở cửa các lĩnh vực đầu tư theo đúng các nguyên tắc nêu tại Chương 9, ngoại trừ các hạn chế đối với đầu tư trong các lĩnh vực nêu tại các Danh mục các biện pháp không tương thích, quy định tại Phụ lục I và Phụ lục II của CPTPP (mỗi nước sẽ có 01 Danh mục riêng). Các Danh mục này thực chất là các ngoại lệ/bảo lưu cho phép các nước CPTPP không phải tuân thủ một số các nghĩa vụ trong Chương Dịch vụ qua biên giới và Chương Đầu tư trong CPTPP. Mỗi Danh mục có cơ chế/nguyên tắc áp dụng riêng.
Phụ lục I: bao gồm các biện pháp không tương thích đang áp dụng tại thời điểm CPTPP có hiệu lực mà mỗi nước CPTPP sẽ được tiếp tục áp dụng; trường hợp có sửa đổi thì việc sửa đổi phải đáp ứng được hai nguyên tắc sau:
- Sửa đổi theo hướng không kém thuận lợi hơn so với biện pháp đó tại thời điểm Hiệp định có hiệu lực (nguyên tắc giữ nguyên trạng - “standtill”)
- Một khi đã sửa đổi lên một mức mới thuận lợi hơn, thì những sửa đổi sau đó sẽ không được kém thuận lợi hơn mức mới này (nguyên tắc chỉ tiến không lùi - “ratchet”). Tuy nhiên, riêng với Việt Nam, đối với nguyên tắc “rachet” về dịch vụ này được bảo lưu chỉ phải tuân thủ sau 3 năm kể từ khi CPTPP có hiệu lực.
Phụ lục II: bao gồm các biện pháp không tương thích mà nước Thành viên CPTPP được phép áp dụng mà không có hạn chế gì về thời gian (hiện tại hay tương lai) và cách thức (thuận lợi hơn hay khó khăn hơn).
IV. Nguyên tắc đầu tư:
Chương Đầu tư CPTPP xây dựng dựa trên các nguyên tắc đối xử công bằng và bảo vệ nhà đầu tư, được chia thành hai nhóm chính:
Các nguyên tắc về đầu tư trong CPTPP:
Các nguyên tắc về đầu tư :
(i) Nhóm các nguyên tắc mở cửa thị trường, xóa bỏ rào cản đầu tư ,Nhóm này bao gồm 03 nguyên tắc cơ bản, được ghi nhận khá phổ biến trong nhiều FTA thời gian gần đây, bao gồm:
- Các nguyên tắc về không phân biệt đối xử (National Treatment – NT và Most Favoured-Nation Treatment – MFN)
Các nguyên tắc NT và MFN đòi hỏi Nhà nước nơi nhận đầu tư phải đối xử với các nhà đầu tư tới từ các nước CPTPP không kém hơn đối xử dành cho nhà đầu tư nội địa của mình (gọi là “đối xử quốc gia” – NT) và không kém hơn đối xử với bất kỳ nước nào khác (gọi là “đối xử tối huệ quốc” – MFN). Tuy nhiên, CPTPP vẫn cho phép các nước được đặt ra các thủ tục/quy định riêng, khác biệt cho nhà đầu tư nước ngoài (so với nhà đầu tư trong nước), với điều kiện là các thủ tục này không làm ảnh hưởng đáng kể tới mức độ bảo hộ nhà đầu tư theo các nguyên tắc CPTPP. Ví dụ, Việt Nam vẫn có thể duy trì các quy định trong Luật Đầu tư 2014 với các thủ tục đăng ký đầu tư riêng đối với nhà đầu tư nước ngoài khác với thủ tục áp dụng cho nhà đầu tư trong nước.
- Nguyên tắc liên quan tới “Các yêu cầu về hoạt động” (Performance Requirements) Nguyên tắc này cấm Nhà nước nơi nhận đầu tư đặt ra các yêu cầu bắt buộc liên quan tới:
+ Việc thành lập, mua lại, mở rộng, quản lý, hoạt động/vận hành của khoản đầu tư (kiểu như phải xuất khẩu một tỷ lệ nhất định sản phẩm sản xuất ra; phải đạt được một tỷ lệ nội địa hóa nhất định; phải mua, sử dụng sản phẩm cho một chủ thể nào đó được chỉ định; phải đảm bảo tỷ lệ nhất định giữa kim ngạch/giá trị xuất khẩu với khoản ngoại tệ được chuyển; phải chuyển giao công nghệ, quy trình hoặc kiến thức cụ thể nào đó cho một chủ thể nội địa….);
+ Mức giá, trị giá bản quyền theo hợp đồng li-xăng, hay thời hạn bắt buộc đối với hợp đồng này. Nhà nước cũng bị cấm không được dùng các yêu cầu trên làm điều kiện để xem xét cấp hay không cấp các ưu đãi dành cho nhà đầu tư. Tuy nhiên, các nước được phép đặt ra yêu cầu về việc sử dụng lao động nội địa trong các dự án đầu tư của các nhà đầu tư CPTPP. Lưu ý: Khác với các nguyên tắc khác trong chương Đầu tư của CPTPP chỉ áp dụng đối với các biện pháp của một nước CPTPP mà có ảnh hưởng tới các nhà đầu tư và khoản đầu tư của nhà đầu tư đến từ các nước CPTPP khác, nguyên tắc “Các yêu cầu về hoạt động” sẽ phải áp dụng cho tất cả các khoản đầu tư nước ngoài trên lãnh thổ của nước CPTPP đó, dù khoản đầu tư đó là của các nhà đầu tư đến từ các nước CPTPP hay của các nhà đầu tư đến từ các nước ngoài CPTPP. Trung tâm WTO và Hội nhập – VCCI (www.trungtamwto.vn)
- Nguyên tắc liên quan tới “Nhân sự quản lý cao cấp và Ban lãnh đạo”
Nguyên tắc này không cho phép Nhà nước nơi nhận đầu tư đặt ra các yêu cầu về quốc tịch bắt buộc của nhân sự quản lý cao cấp hay Ban lãnh đạo. Tuy nhiên, Nhà nước vẫn có quyền yêu cầu đa số các thành viên của Ban lãnh đạo doanh nghiệp đầu tư nước ngoài từ CPTPP phải có quốc tịch của một nước hoặc phải cư trú trên lãnh thổ nước mình.
(ii) Nhóm các nguyên tắc nhằm đảm bảo các quyền lợi cơ bản của nhà đầu tư Nhóm này bao gồm 04 nguyên tắc nhằm đảm bảo một số quyền lợi cơ bản của của nhà đầu tư, bao gồm:
- Nguyên tắc “chuẩn đối xử tối thiểu” (Minimum Standard of Treatment – MST)
“Chuẩn đối xử tối thiểu” được hiểu là theo nghĩa thông dụng là đối xử công bằng, thỏa đáng, bảo hộ an toàn, đầy đủ theo tập quán quốc tế. Tuy nhiên, do nội hàm khá chung chung này, “chuẩn đối xử tối thiểu” đã trở thành nguyên tắc gây tranh cãi khá nhiều trong các vụ kiện tụng về đầu tư khi mà nhà đầu tư thường dựa vào nguyên tắc này để phản đối bất kỳ quy định mới nào của nước nhận đầu tư bất lợi cho mình. Trong CPTPP, đã có thêm một số nỗ lực để giới hạn phạm vi của nguyên tắc này. Cụ thể, CPTPP yêu cầu “chuẩn đối xử tối thiểu” phải là các nguyên tắc phù hợp với “tập quán pháp luật quốc tế”, được hiểu là các nguyên tắc quốc tế về bảo vệ đầu tư nước ngoài đã trở thành tập quán chung được các quốc gia áp dụng phổ biến và liên tục và coi đó như nghĩa vụ bắt buộc của mình. Đặc biệt, CPTPP khẳng định việc Nhà nước có một biện pháp chính sách pháp luật hay thủ tục nào đó khác với dự kiến/mong đợi của nhà đầu tư CPTPP sẽ không bị coi là vi phạm “chuẩn đối xử tối thiểu”, kể cả khi việc làm đó của Nhà nước gây ra thiệt hại cho nhà đầu tư CPTPP. Quy định này nhằm hạn chế tình trạng nhà đầu tư kiện đòi Nhà nước bồi thường cho mình chỉ vì một chính sách mới nào đó của Nhà nước khiến lợi nhuận kinh doanh của nhà đầu tư không được như kỳ vọng trước đó của nhà đầu tư.
- Nguyên tắc Bảo vệ tài sản của nhà đầu tư trước các biện pháp tịch thu, cưỡng chế, quốc hữu hóa
Với nguyên tắc này, Nhà nước chỉ được tịch thu, cưỡng chế hay quốc hữu hóa (gọi chung là tước quyền sở hữu) các khoản đầu tư của nhà đầu tư CPTPP vì mục đích công cộng. Đồng thời, các biện pháp này phải được thực thi theo cách không phân biệt đối xử, tuân thủ các quy trình và đảm bảo việc bồi thường nhanh chóng, chính xác, hiệu quả, đúng giá thị trường tại thời điểm liền trước việc tịch thu/cưỡng chế/quốc hữu hóa. Chú ý là các hoạt động quản lý được thực thi không phân biệt đối xử, với mục tiêu bảo vệ các phúc lợi công cộng chính đáng như sức khỏe cộng đồng, an toàn và môi trường, sẽ không bị coi là các biện pháp tước quyền sở hữu gián tiếp trừ trong các trường hợp hãn hữu. Ngoài ra, CPTPP cũng làm rõ rằng các quyết định không ban hành, không làm mới, hoặc không duy trì một khoản trợ cấp/cấp phát, hoặc quyết định điều chỉnh, cắt giảm một khoản trợ cấp/cấp phát sẽ không bị coi là hình thức “tước quyền sở hữu” nếu trước đó cơ quan Nhà nước không có cam kết cụ thể nào trong pháp luật hay hợp đồng về việc này và việc này được thực hiện phù hợp với các điều khoản, điều kiện liên quan trước đó.
- Nguyên tắc Bảo đảm việc chuyển vốn tự do
Nhà nước nơi nhận đầu tư phải cho phép các nhà đầu tư tự do chuyển vốn liên quan tới khoản đầu tư (ví dụ vốn góp ban đầu, lợi nhuận, cổ phần, các khoản lãi, phí bản quyền, trị giá hợp đồng, bồi thường tranh chấp…). Tuy nhiên, nguyên tắc này sẽ không áp dụng trong một số ngoại lệ (ví dụ nếu để bảo vệ các chủ nợ nội địa trong trường hợp nhà đầu tư CPTPP bị phá sản; nếu liên quan tới các tội hình sự hoặc các thủ tục tố tụng tại Tòa án…).
V. Các bảo lưu:
Tuy nhiên, để đảm bảo sự linh hoạt và chủ quyền quốc gia, CPTPP cũng quy định các trường hợp ngoại lệ và bảo lưu nhất định:
Các bảo lưu và ngoại lệ trong Chương Đầu tư CPTPP:
Các bảo lưu và ngoại lệ được CPTPP thừa nhận trong đối xử với nhà đầu tư nước ngoài Mặc dù đặt ra nhiều nguyên tắc chung về đầu tư, Chương Đầu tư của CPTPP vẫn có nhiều trường hợp ngoại lệ/bảo lưu, cho phép tất cả các nước hoặc một số nước không phải tuân thủ các nguyên tắc chung nói trên. Các ngoại lệ này bao gồm nhóm ngoại lệ chung (mà tất cả các nước được áp dụng) và ngoại lệ riêng (chỉ áp dụng riêng cho từng nước).
- Nhóm các ngoại lệ chung của Chương Đầu tư Nhóm này bao gồm ngoại lệ trong các trường hợp được liệt kê trong Điều 9.12 (mua sắm công, trợ cấp và hỗ trợ của Nhà nước, các ngoại lệ trong TRIPS của WTO…).
- Nhóm các ngoại lệ/bảo lưu riêng của từng nước
- Các Danh mục bảo lưu của từng nước CPTPP Các Danh mục này còn được biết tới dưới tên Danh mục các Biện pháp không tương thích (Xem Câu 47 thuộc Phụ lục I và II của CPTPP. Về nội dung, danh mục này là các bảo lưu đối với các nguyên tắc về mở cửa thị trường trong Đầu tư (Đối xử quốc gia, Đối xử tối huệ quốc, Yêu cầu về hoạt động, và Nhân sự quản lý cao cấp và Ban lãnh đạo). Các Danh mục này không có bảo lưu nào đối với các nghĩa vụ thuộc nhóm bảo đảm quyền lợi cơ bản của nhà đầu tư.
- Các Bảo lưu riêng khác Các nước có thể có bảo lưu riêng đối với Danh mục các biện pháp không tương thích (xem trình bày ở phần Mở cửa đầu tư dưới đây) và với các nghĩa vụ khác (được nêu cụ thể trong Hiệp định).
VI. Mở cửa thị trường đầu tư theo danh mục NCM
Mặc dù các nước CPTPP có quyền đưa ra biện pháp bảo lưu trong Danh mục NCM nhưng do CPTPP là hiệp định tiêu chuẩn cao nên các nước CPTPP chỉ được phép duy trì một số lượng hạn chế các biện pháp bảo lưu. Việt Nam được duy trì khá nhiều biện pháp bảo lưu dựa trên cam kết đã có trong WTO và một số FTA đã ký kết. Tuy nhiên, Việt Nam cũng đồng ý mở thêm một số lĩnh vực để đạt được kết quả cân bằng trong quá trình đàm phán. Nội dung chính các cam kết trong Danh mục NCM như sau:
Cam kết trong Phụ lục I
Việt Nam mở cửa hơn so với WTO trong các lĩnh vực như sau:
Dịch vụ tư vấn pháp lý: Cho phép tổ chức luật sư nước ngoài được thực hiện dịch vụ giấy tờ và chứng thực pháp lý đối với hợp đồng thương mại và điều lệ công ty. Tuy nhiên, việc này phải do luật sư Việt Nam làm việc trong các tổ chức luật sư nước ngoài thực hiện.
Dịch vụ quảng cáo: Cho phép nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài thành lập công ty 100% vốn nước ngoài.
Các dịch vụ kinh doanh khác: Không hạn chế nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài cung cấp các dịch vụ bất động sản trên cơ sở phí hoặc hợp đồng hoặc bao gồm tài sản sở hữu hoặc tài sản thuê, dịch vụ tư vấn hỗ trợ nghề cá nước mặn, nước ngọt và nhân giống, dịch vụ bà đỡ và y tá, bác sỹ trị liệu và nhân viên y tế không chuyên, dịch vụ nghiên cứu và phát triển đối với khoa học xã hội, nhân văn và đa ngành.
Ngoài ra, ta cho phép nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài thành lập liên doanh vốn góp không hạn chế để cung cấp các dịch vụ chụp ảnh chân dung và chụp ảnh đặc biệt (ngoại trừ chụp ảnh trên không).
Đối với dịch vụ đóng gói, ta cho phép liên doanh với phần vốn góp của nước ngoài không vượt quá 49%.
Dịch vụ phân phối: Không áp dụng yêu cầu kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT) đối với các cửa hàng bán lẻ có diện tích dưới 500m2 được thành lập ở các khu vực được quy hoạch cho hoạt động thương mại và đã hoàn tất việc xây dựng cơ sở hạ tầng. Sau 5 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, ENT sẽ được bãi bỏ.
Về diện mặt hàng, nhà phân phối nước ngoài được phép phân phối gạo, đường và đường củ cải.
Dịch vụ viễn thông:
- Đối với dịch vụ cơ bản và giá trị gia tăng không gắn hạ tầng mạng: Sau 5 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, cho phép nhà cung cấp dịch vụ viễn thông nước ngoài được thành lập công ty 100% vốn nước ngoài và bãi bỏ các yêu cầu về thành lập
và góp vốn trong liên doanh.
- Đối với dịch vụ giá trị gia tăng gắn với hạ tầng mạng: Sau 5 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, cho phép nhà cung cấp dịch vụ viễn thông nước ngoài được nâng tỷ lệ vốn góp trong liên doanh từ 51% lên 65%.
- Bán dung lượng cáp quang biển qua trạm cập bờ: cho phép nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được phép sở hữu tới 100% dung lượng truyền dẫn cáp biển tại trạm cập bờ hệ thống cáp biển được cấp phép tại Việt Nam, và có thể bán cho các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông, bao gồm các nhà cung cấp dịch vụ internet (ISP) đã được cấp phép tại Việt Nam.
Dịch vụ giáo dục:
Nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được phép đào tạo trong tất cả các môn học ngoại trừ các môn học về quốc phòng, an ninh, chính trị, tôn giáo, văn hóa Việt Nam và các môn học cần thiết để bảo vệ đạo đức xã hội của Việt Nam đối với dịch vụ giáo dục bậc cao (CPC 923), giáo dục người lớn (CPC 924) và giáo dục khác (CPC 929 bao gồm cả dịch vụ đào tạo ngoại ngữ).
Dịch vụ môi trường:
Không hạn chế nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài cung cấp các dịch vụ vệ sinh (CPC 9403), dịch vụ bảo vệ thiên nhiên và cảnh quan (CPC 9406).
Dịch vụ giải trí (ban nhạc, nhà hát, rạp xiếc): Sau 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, cho phép nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được thành lập liên doanh với vốn góp trong liên doanh là 51%.
Dịch vụ trò chơi điện tử qua mạng: Sau 2 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, cho phép nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được thành lập liên doanh để cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử cung cấp qua mạng internet với vốn góp trong liên doanh là 51%. 5 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực, cho phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài.
Các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài có thể được cung cấp dịch vụ qua biên giới nhưng phải tuân thủ quy định pháp luật của Việt Nam, bao gồm cả các quy định về cấp phép và đăng ký.
Dịch vụ thông quan và dịch vụ hỗ trợ các phương thức vận tải khác: Cho phép nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài thành lập công ty 100% vốn nước ngoài ngay khi Hiệp định có hiệu lực.
VII. Kết luận:
Chương Đầu tư CPTPP là một phần quan trọng của hiệp định, tạo ra khuôn khổ pháp lý quốc tế để bảo vệ và khuyến khích đầu tư giữa các nước thành viên. Việc nắm vững các quy định của chương này là yếu tố then chốt để nhà đầu tư CPTPP tận dụng tối đa các cơ hội đầu tư tại Việt Nam, cũng như để Việt Nam thu hút nguồn vốn đầu tư chất lượng cao từ các quốc gia đối tác. Để hiểu rõ hơn và được tư vấn cụ thể về các vấn đề liên quan đến đầu tư theo CPTPP, nhà đầu tư nên tìm kiếm sự hỗ trợ từ các chuyên gia pháp lý và các tổ chức xúc tiến đầu tư uy tín.
Nguồn dữ liệu bài viết:
- Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương - Tóm tắt chương 9 - Đầu tư ;
- Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương - Bình luận của người trong cuộc - Nhà xuất bản thanh niên phát hành;
- Bản dịch chương chính của CPTPP của VCCI
Thông tin có trong bài viết này mang tính chất chung và chỉ nhằm mục đích cung cấp thông tin về quy định pháp luật. DB Legal sẽ không chịu trách nhiệm cho bất kỳ việc sử dụng hoặc áp dụng thông tin cho bất kỳ mục đích kinh doanh nào. Để có tư vấn pháp lý chuyên sâu, xin vui lòng liên hệ với chúng tôi.
Local Office Numbers: | |
Hotline/Zalo/Whatsapp: | +84 357 466 579 |
Email: | contact@dblegal.vn |
Bài viết liên quan:
- [cập nhật 2025] Đầu Tư Dịch Vụ Quy Hoạch Đô Thị & Kiến Trúc Cảnh Quan Đô Thị (CPC 8674) Tại Việt Nam: Hướng Dẫn Chi Tiết
- [Cập Nhật 2025] Đầu Tư Nước Ngoài Vào Việt Nam: Dịch Vụ Tư Vấn Kỹ Thuật Đồng Bộ (CPC 8673)
- [Cập Nhật 2025] Thủ Tục Đăng Ký Kinh Doanh Dạy Thêm: Hướng Dẫn A-Z Cho Giáo Viên
- Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam để kinh doanh dịch vụ tư vấn kỹ thuật (CPC 8672)
- Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam về dịch vụ kiến trúc (CPC 8671)
- Thủ tục đầu tư kinh doanh dịch vụ kế toán, kiểm toán có yếu tố nước ngoài (CPC 862)
- Thủ tục Điều chỉnh Giấy phép thành lập Văn phòng đại diện của Thương Nhân Nước Ngoài tại Việt Nam
- Nội dung cơ bản của Hiệp định Chung về Thương mại Dịch vụ của WTO (GATS)
- Thành Lập Công ty sản xuất Chip Bán Dẫn tại Việt Nam
- Thủ tục thành lập công ty du lịch lữ hành tại Việt Nam