Banner

Tổng hợp 10 bản án hôn nhân gia đình có tranh chấp tài sản sau ly hôn

13/10/2023 | Bản án

Thống kê 10 bản án hôn nhân gia đình có tranh chấp tài sản sau ly hôn

Mục lục:

1. Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 119/2022/HNGĐ-ST ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh về tranh chấp tài sản sau ly hôn.

* Nội dung vụ án:

Chị Phan Thị V và anh Dương Quốc D kết hôn năm 2012 nhưng sau đó ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thoả thuận của các đương sự số: 355/2020/QĐST-HNGĐ của TAND thành phố Tây Ninh. Về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét (vì Chị V nghĩ do anh D đã vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng nên anh D đã tự nguyện giao tài sản cho chị V). Nay, chị V khởi kiện anh D yêu cầu chia tài sản chung sau khi ly hôn. Chị V yêu  cầu được nhận toàn bộ tài sản chung quyền sử dụng đất diện tích 270,8m2, thửa đất số 868, tờ bản đồ số 06, đất tọa lạc tại khu phố LTr, phường LTTr, thị xã Hoà Thành, tỉnh Tây Ninh. Vì theo tờ cam kết ngày 17/7/2020 thì anh D đã tự nguyên giao toàn bộ tài sản cho chị V.

Ngoài ra chị V yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng thửa đất nêu trên theo số công chứng 256, quyển số 01 TP/CC - SCC/HĐGĐ  ngày 13/01/2021 của Văn phòng Công chứng LTTh vô hiệu vì lý do đây là tài sản chung vợ chồng, anh D chuyển nhượng cho chị T1 không có ý kiến của chị V là không đúng quy định của pháp luật.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định:

- Về tài sản tranh chấp:

Theo hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện đang lưu giữ tại Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Tây Ninh - chi nhánh Hoà Thành thể hiện, phần đất tranh chấp có nguồn gốc là của ông Dương Văn H, ngày 09/8/2016, ông H tặng cho con ruột là anh Dương Quốc D, ngày 24/8/2016, anh D được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Tây Ninh cấp giấy chứng nhận quyền dụng đất. 

Xét chứng cứ do nguyên đơn cung cấp là “hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất viết tay ngày 04/8/2016” giữa bên chuyển nhượng là ông Dương Văn H, bà Nguyễn Thị Kim Th; bên nhận chuyển nhượng là anh Dương Quốc D và chị Phan Thị V thấy rằng: Chị V trình bày phần đất trên là tài sản chung của chị và anh D do anh chị nhận chuyển nhượng từ ba mẹ ruột của anh D là ông H và bà Th, giá chuyển nhượng là 500.000.000 đồng, nhưng hai bên thống nhất làm thủ tục tặng cho để được giảm tiền thuế, lời trình bày của chị V phù hợp với lời trình bày của ông Dương Văn H là ba ruột của anh D.

Trong quá trình toà án giải quyết, anh D đã được toà án triệu tập để làm việc rất nhiều lần nhưng anh D không đến toà án để làm việc và trình bày ý kiến. Mặt dù “hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất viết tay ngày 04/8/2016” không có chữ ký của anh D nhưng có chữ ký của ba mẹ ruột của anh D là ông H và bà Th. Do đó, đủ căn cứ xác định  “hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất viết tay ngày 04/8/2016” là có thật, có việc chuyển nhượng đất giữa hai bên và thống nhất không làm thủ tục chuyển nhượng mà làm thủ tục tặng cho.

Như vậy, đủ căn cứ xác định, tài sản tranh chấp là tài sản chung của chị V và anh D là phù hợp với quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình.

- Xét yêu cầu của chị V yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh D và chị T1 vô hiệu thấy rằng: Tài sản tranh chấp là tài sản chung của vợ chồng chị V anh D nhưng hai bên thống nhất làm thủ tục tặng cho và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ một mình anh D đứng tên. Thời điểm anh D chuyển nhượng đất cho chị T1 thì anh D, chị V đã ly hôn và hai bên không có tranh chấp gì về chia tài sản chung. Chị T1 không thể biết được đây là tài sản chung của vợ chồng. Việc chuyển nhượng đất giữa chị T1 và anh D đã hoàn thành và đảm bảo đúng quy định của pháp luật, chị T1 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, chị T1 được xác định là người thứ ba ngay tình theo quy định tại Điều 133 Bộ luật Dân sự nên hợp đồng chuyển nhượng giữa chị T1 và anh D không bị vô hiệu.

- Xét yêu cầu khởi kiện chia tài sản chung của chị V đối với anh D, chị V yêu cầu được nhận toàn bộ quyền sử dụng đất bằng hiện vật thấy rằng:

Đối với yêu cầu chia tài sản chung: Do có căn cứ xác định tài sản tranh chấp là tài sản chung của vợ chồng nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 59 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu chia tài sản chung của chị V đối với anh D.

Đối với yêu cầu được nhận toàn bộ quyền sử dụng đất bằng hiện vật: Chị V cung cấp cho toà án 01 giấy cam kết ngày 17/7/2020, có chữ ký của anh D. Nội dung thể hiện anh D có vi phạm nội dung trong tờ cam kết thì toàn bộ T sản của vợ chồng sẽ do chị V toàn quyền định  đoạt. Tuy nhiên, trong tờ cam kết lại không liệt kê là loại tài sản nào.  Mặt khác, tài sản chị V yêu cầu chia trong vụ án là quyền sử dụng đất thì thủ tục chuyển quyền phải tuân theo quy định của pháp luật, phải được làm văn bản, được công chứng hoặc chứng thực và kể từ ngày đăng ký thì mới có hiệu lực. Chị V chỉ dựa vào nội dung cam kết trong  tờ cam kết để yêu cầu nhận toàn bộ tài sản chung là không có căn cứ.

Do đó, cần chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị V đối với anh D, tài sản chung của vợ chồng nên mỗi người sẽ được chia ½. Do quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng, anh D chuyển nhượng cho chị T1 và chị T1 đã tiếp tục chuyển nhượng sang cho anh T2 và chị P. Chị T1 được xác định là người thứ ba ngay tình nên hiện tài sản đã không còn. Anh D tự định đoạt tài sản chung, việc chuyển nhượng đất  đã hoàn thành và anh D là người nhận tiền chuyển nhượng đất. Do đó,  anh D phải có nghĩa vụ trả lại cho chị V ½ giá trị của phần đất tranh chấp tương đương với giá tại thời điểm xét xử, cụ thể: Theo biên bản định giá ngày 08/9/2022, thì phần đất tranh chấp có giá là 160.000.000 đồng x 07 mét = 1.120.000.000 đồng, nên anh D và chị V mỗi người được hưởng một nửa là: 1.120.000.000 đồng : 2 = 560.000.000 đồng.  Anh D phải có nghĩa vụ trả lại cho chị V số tiền 560.000.000 đồng

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị V đối với  anh Dương Quốc D về việc: “Tranh chấp chia tài sản chung sau khi ly hôn”. Buộc anh Dương Quốc Dung phải có nghĩa vụ trả lại cho chị Phan  Thị V số tiền 560.000.000 đồng.

2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị V đối với anh Dương Quốc D về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Dương Quốc D với chị Huỳnh Thị Mỹ T1 ngày 13/01/2021 vô hiệu.

2. Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 28/2022/HNGĐ-ST ngày 09 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh  Lạng Sơn về tranh chấp tài sản sau ly hôn.

* Nội dung vụ án:

Anh Lường Văn T và chị Hoàng Thị B được Tòa án giải quyết ly hôn theo Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 23/2021/HNGĐ-ST  ngày 30/12/2021 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Lạng Sơn và khi  đó, anh Lường Văn T đã rút yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng là số tiền tiết kiệm 185.000.000 đồng gửi ngân hàng đứng tên chị Hoàng Thị B. Nay do Chị B đã rút và sử dụng số tiền tiết kiệm trên nên anh T khởi  kiện chị B yêu cầu Tòa án chia số tiền tiết kiệm trên cùng tài sản chung  là động sản khác theo quy định của pháp luật.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định:

- Về tài sản chung của vợ chồng: Căn cứ vào lời trình bày của các  đương sự, cùng các tài liệu chứng từ theo công văn do Ngân hàng cung cấp và tại Bản án Hôn nhân và gia đình số 23/2021/HNGĐ-ST ngày 30/12/2021 của Tòa án nhân dân huyện Lộc B, tỉnh Lạng Sơn thì cả anh  T và chị B đều xác định số tiền 185.000.000 đồng gửi tiết kiệm do chị B đứng tên tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện L, tỉnh Lạng Sơn là tài sản chung vợ chồng.

- Về nguồn gốc, công sức tạo lập tài sản chung: Anh T trình bày toàn bộ số tiền 185.000.000 đồng chị B đi làm, tiết kiệm được, bản thân anh T chỉ làm việc trong gia đình, chăm sóc các con, không có đóng góp  vào tài sản chung.

- Căn cứ quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, thu nhập được  tạo ra trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng. Tuy anh T không có đóng góp vào việc tạo ra số tiền 185.000.000 đồng nhưng anh làm công việc gia đình, chăm sóc các con. Do vậy, số tiền 185.000.000 là tài sản chung của anh T và chị B trong thời kỳ hôn nhân. Cả anh T và chị B đều có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, định đoạt tài sản chung của vợ chồng.

- Tại Bản án Hôn nhân và gia đình số 23/2021/HNGĐ-ST ngày 30/12/2021 của Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn thể hiện chị Hoàng Thị B đã tự ý định đoạt tài sản chung của vợ chồng là số tiền 185.000.000 đồng để tiêu sài cá nhân hết, vợ chồng không có nợ chung. Quá trình giải quyết vụ án, tại Biên bản lấy lời khai ngày 04/3/2022, chị B trình bày đã sử dụng số tiền 185.000.000 đồng để trả nợ chị Nông Thị K. Như vậy, những lời khai của chị B có mâu thuẫn với nhau về nợ chung và việc sử dụng số tiền 185.000.000 đồng. Ngoài chị B và chị K không trình bày được thời gian vay nợ, số tiền vay cụ thể trong từng lần vay, mục đích vay, thời gian trả nợ cụ thể và không có tài  liệu, chứng cứ gì chứng minh có việc vay nợ, trả nợ. Do vậy, có căn cứ xác định chị B đã tự ý định đoạt tài sản chung vợ chồng là số tiền  185.000.000 đồng không nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu chung của gia đình. Vì vậy, yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là số tiền 185.000.000 đồng do chị Hoàng Thị B đang quản lý của anh Lường Văn T là có căn cứ.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy chị B là người tạo ra toàn bộ 185.000.000 đồng, anh T không có công sức đóng góp, tạo lập nên số tài sản này. Do vậy, HĐXX chia tài sản chung là số tiền 185.000.000 đồng  cho anh T và chị Hoàng Thị B như sau: Bị đơn chị Hoàng Thị B được chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là 60% x  185.000.000 đồng = 111.000.000 đồng. Nguyên đơn anh Lường Văn T  được chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là 40% x  185.000.000 đồng = 74.000.000 đồng. Bị đơn chị Hoàng Thị B phải  hoàn trả cho anh Lường Văn T số tiền 74.000.000 đồng.

- Nguyên đơn anh Lường Văn T không yêu cầu giải quyết tiền lãi phát sinh từ số tiền 185.000.000 đồng nên HĐXX không xem xét.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị K không yêu cầu chị B và anh T phải trả số tiền vay nợ là 100.000.000 đồng nên HĐXX không xem xét.

- Nguyên đơn anh Lường Văn T rút yêu cầu chia tài sản chung là 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda RSX, màu sơn đỏ đen, biển kiểm soát 12 L1- 10508 nên HĐXX đình chỉ giải quyết yêu cầu này.

- Ý kiến phát biểu của Đại diện VKSND huyện Lộc Bình và đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn là có căn  cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

- Nguyên đơn anh T và bị đơn chị B là người dân tộc thiểu số thường xuyên sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt  khó khăn và có đơn xin miễn nộp tiền án phí nên được miễn nộp toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12,  Điều 14, Điều 15 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12- 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu,  miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên xử:

1. Về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân:

1.1. Nguyên đơn anh Lường Văn T được chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là 40% x 185.000.000 đồng = 74.000.000  đồng (bẩy mươi tư triệu đồng). Bị đơn chị Hoàng Thị B có trách nhiệm hoàn trả cho anh Lường Văn T số tiền 74.000.000 đồng (bẩy mươi tư triệu đồng).

1.2. Bị đơn chị Hoàng Thị B được chia tài sản chung của vợ chồng  trong thời kỳ hôn nhân là 60% x 185.000.000 đồng = 111.000.000 đồng.  

2. Về lãi suất chậm trả: Khi bản án có hiệu lực pháp luật, bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành, nếu bên có nghĩa vụ chậm trả tiền  thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều  357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Lường Văn T yêu  cầu chia tài sản chung là 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda RSX, màu sơn đỏ đen, biển kiểm soát 12 L1-10508 do anh Lường Văn T rút yêu cầu. 

4. Về án phí: Nguyên đơn anh Lường Văn T và bị đơn chị Hoàng Thị B được miễn nộp toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

3. Bản án Hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 33/2022/HNGĐ-PT ngày 27 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về tranh chấp tài sản sau ly hôn.

* Nội dung vụ án:

Anh Lê Anh M và chị Trần Thị Ngọc Q kết hôn năm 2002. Năm 2017 hai anh chị ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 67/2017/QĐST-HNGĐ ngày 12/4/2017 của TAND quận N. Về tài sản chung của vợ chồng, khi ly hôn hai anh chị không yêu cầu giải quyết. Nay, do hai bên không thỏa  thuận được việc phân chia tài sản chung nên anh M làm đơn khởi kiện  chị Q đề nghị Tòa án có thẩm quyền chia tài sản chung của vợ chồng là số tiền 400.000.000 đồng đã góp vào việc mua nhà đất tại B12 Lô B, Dự án X3 Thị trấn C, nay là B12 lô B, khu dự án X3, phường C, quận N,  thành phố Hà Nội theo quy định của pháp luật. 

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định:

Tại Bản án sơ thẩm số 398/2020/HNGĐ-ST ngày 21 tháng 9 năm  2020 của Toà án nhân dân quận N đã quyết định: Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Lê Anh M về việc yêu cầu  chia tài sản chung của vợ chồng là số tiền 400.000.000 đồng. Chia cho chị Trần Thị Ngọc Q toàn bộ số tiền 400.000.000 đồng. Anh Lê Anh T có trách nhiệm thanh toán số tiền 400.000.000 đồng (Bốn trăm triệu  đồng) cho chị Trần Thị Ngọc Q.

2. Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Phạm Thị A về việc yêu cầu  tuyên “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất” lập ngày 27/12/2007 được Văn phòng công chứng số 3, thành  phố Hà Nội chứng thực, số công chứng 6367.2007/CNQSDĐ là vô hiệu.

Anh Lê Anh M và chị Trần Thị Ngọc Q phải trả lại tài sản là nhà đất tại B12 lô B, khu dự án X3, phường C, quận N, thành phố Hà Nội  (đã được UBND huyện Từ Liêm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng  đất số AE 479468 ngày 24/10/2006) cho bà Phạm Thị A và các hàng  thừa kế của ông Lê Tuấn T.

Sau khi xét xử, chị Q gửi đơn kháng cáo bản án sơ thẩm với nội  dung đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm theo  hướng: Xác định nhà đất tại B12 lô B, khu dự án X3, phường Cầu Diễn,  quận N, thành phố Hà Nội là tài sản chung của chị với anh M và chia  mỗi người được hưởng 1/2.

* Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:

- Về nội dung yêu cầu Tòa án giải quyết, HĐXX nhận thấy: Anh M và chị Q đã từng là vợ chồng nhưng do mục đích hôn nhân không đạt được nên hai bên thống nhất giải quyết ly  hôn. Mặc dù đã ly hôn, nhưng anh M và chị Q vẫn còn tranh chấp về tài  sản chung và tiếp tục đề nghị Toà án giải quyết. Tài sản tranh chấp là nhà  đất tại B12 lô B, khu dự án X3, phường C, quận N, thành phố Hà Nội.

Căn cứ vào tài liệu xác minh do Tòa án thu thập được và các lời  khai của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án thể hiện: Nhà đất tại B12 lô B, khu dự án X3, phường C, quận N, thành phố Hà Nội đã được  Ủy ban nhân dân huyện Từ Liêm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AE 479468 ngày 24/10/2006, diện tích 56,3m2 cùng tài sản gắn  liền với đất. Năm 2004, trước khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông D, bà P đã chuyển nhượng lại cho ông Đinh Văn T và  bà Phạm Thị H bằng giấy tờ viết tay. Vợ chồng ông Thiện, bà Hồng đã  chuyển về sống tại đây, hai bên chưa làm thủ tục sang tên trên Giấy  chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2007 do không có nhu cầu sử dụng  nên ông Thiện, bà Hồng đã thực hiện việc chuyển nhượng lại.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh thu thập chứng cứ thấy rằng: Những người liên quan trong vụ án là bên chuyển  nhượng nhà đất đều xác nhận ngay từ ban đầu việc thỏa thuận chuyển  nhượng và giá cả là do bên bán giao dịch với vợ chồng bà Phạm Thị A  và ông Lê Tuấn T, không liên quan đến anh M, chị Q. Ông Đinh Văn T  xác nhận bà Phạm Thị A trao đổi với ông về việc vợ chồng bà A không  đủ điều kiện đứng tên trên Hợp đồng chuyển nhượng và nhờ vợ chồng  anh M, chị Q (có hộ khẩu ở Hà Nội) đứng tên hộ trên giấy tờ. Lời khai  của ông Thiện cũng phù hợp với lời khai của bà A và đúng với thực tế tại thời điểm nhận chuyển nhượng nhà đất thì vợ chồng bà A đang sinh  sống và có hộ khẩu tại Thanh Hóa, không thể làm thủ tục đứng tên sở hữu nhà đất tại Hà Nội theo quy định của pháp luật Đất đai.

Về việc thanh toán tiền chuyển nhượng nhà đất: Anh Hoàng Đình Trung (con rể bà A) khai anh là người chuyển khoản hộ bà A số tiền 2 tỷ đồng vào tài khoản của anh M. Lời khai của anh Trung phù hợp với thể hiện tại bản sao kê tài khoản của anh Lê Anh M tại ngân hàng TMCP  Ngoại thương Việt Nam, phù hợp với thời gian anh M chuyển khoản số tiền 01 tỷ đồng vào tài khoản của bên bán là ông Đinh Văn T (có sao kê  tài khoản). Ông Thiện cũng xác nhận số tiền anh M chuyển vào tài khoản và số tiền còn lại do anh M giao trực tiếp cho ông. Thời gian  chuyển khoản tiền cũng phù hợp với thời gian thỏa thuận về việc chuyển nhượng nhà đất. 

HĐXX thấy: Biên bản có 03 trang, trong đó chỉ có trang cuối cùng  có chữ ký của các thành viên tham gia cuộc họp. Chứng cứ do tòa án thu  thập được thể hiện, ngoài chị Q ra thì tất cả các thành viên tham gia  cuộc họp đều công nhận cuộc họp là có thật và nội dung đúng như biên  bản do anh M xuất trình. Như vậy, biên bản không được chị Q công  nhận tại các trang không có chữ ký, tuy nhiên nội dung hoàn toàn phù  hợp với thực tế khách quan, phù hợp với thời gian thỏa thuận mua bán  nhà đất, ngoài chị Q ra thì đều được những người còn lại công nhận. Tại  trang cuối có chữ ký của những người tham gia cuộc họp cũng thể hiện  nội dung: “Tất cả những tài sản, bất động sản của bố mẹ chưa phân cấp  cho con nào cả...các con đừng trông chờ vào sự thừa hưởng của bố mẹ ban cho...”.

Mặc dù chị Q khẳng định nhà đất tại B12 lô B, khu dự án X3,  phường Cầu Diễn, quận N là tài sản chung của chị và anh M nhưng chị Q lại không chứng minh được nguồn gốc số tiền trả cho bên bán ở đâu  mà có, trả tại đâu, bao nhiêu lần và trả cho ai. Trong khi bên bán lại  không thừa nhận việc chuyển nhượng cho anh M, chị Q mà chỉ xác nhận có thỏa thuận chuyển nhượng cho vợ chồng bà Phạm Thị A và được vợ chồng bà A nhờ viết giấy chuyển nhượng cho vợ chồng anh M đứng tên  hộ vì vợ chồng bà A không có hộ khẩu ở Hà Nội.

Tài sản tranh chấp trong vụ án có liên quan đến ông Lê Tuấn T là  chồng bà A và là bố anh M, tuy nhiên ông Thọ đã chết trước khi anh Lê Anh M và chị Trần Thị Ngọc Q ly hôn. Tòa án cấp sơ thẩm đã đưa  những người thuộc hàng thừa kế của ông Thọ là bà Phạm Thị A, chị Lê  Thị Tuyết T, chị Lê Thị Lan O, anh anh Lê Anh T, anh Lê Anh M và  anh Lê Quang Vinh tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi  và nghĩa vụ liên quan. 

Bà Phạm Thị A, chị Lê Thị Tuyết T, chị Lê Thị Lan O, anh Lê Anh  T và anh Lê Quang Vinh cùng xác nhận trong khoản tiền bà A và ông  Thọ bỏ ra để mua nhà đất tại B12 lô B, khu dự án X3, phường Cầu  Diễn, quận N có phần đóng góp của anh Lê Anh M và chị Q là  400.000.000 đồng.

Từ phân tích đánh giá trên, HĐXX phúc thẩm xác định nhà đất tại  B12 lô B, khu dự án X3, phường Cầu Diễn, quận N là tài sản chung của bà Phạm Thị A, ông Lê Tuấn T, anh Lê Anh M và chị Trần Thị Ngọc Q do bà A, ông Thọ cùng anh M, chị Q cùng góp tiền mua.

Xét lời khai của chị Trần Thị Ngọc Q về việc bỏ ra số tiền 600 triệu  đồng để sửa chữa nhà: Nhà đất tranh chấp thuộc dự án, đã được xây 3,5 tầng trước khi bàn giao cho bên mua. Trước khi ông Thiện, bà Hồng chuyển nhượng lại cho bà A thì ông bà đã nhận nhà và ở đây 2 năm. Kết  cấu nhà khi thẩm định vẫn giữ nguyên trạng là nhà 3,5 tầng. Chị Q chỉ có lời khai, không xuất trình được tài liệu chứng cứ chứng minh việc  sửa chữa nhà nên HĐXX không có cơ sở để xem xét.

Quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã tiến hành định giá tài sản nhà  đất tại B12 lô B, khu dự án X3, phường Cầu Diễn, quận N và xác định tổng giá trị nhà và đất là 6.033.400.760 đồng. Do vậy, xác định giá trị tài sản chung của anh M, chị Q được chia là 6.033.400.760 đồng x  14,36% = 866.396.349 đồng. HĐXX xác định giá trị công sức duy trì  của anh M và chị Q là 200.000.000 đồng.

Từ phân tích, nhận định và đánh giá trên, HĐXX xét thấy có căn cứ để xác định nhà đất nêu trên có giá trị 6.033.400.760 đồng, trong đó tỷ lệ phân định của anh M và chị Q là 14,36% có giá trị 866.396.349 đồng. Do tỷ lệ nhà đất của bà A, ông Thọ nhiều hơn nên phân định để bà A và  ông Thọ sở hữu và sử dụng nhà đất tại B12 lô B, khu dự án X3, phường  Cầu Diễn, quận N, đồng thời có trách nhiệm thanh toán cho anh M, chị Q số tiền 1.066.396.349 đồng. (866.396.349 đồng + 200.000.000 đồng).

Do ông Lê Tuấn T đã chết, không để lại di chúc nên phần di sản  thừa kế của ông Thọ để lại cho các thừa kế là bà Phạm Thị A, chị Lê Thị Tuyết T, anh Lê Anh M, chị Lê Thị Lan O, anh Lê Anh T và anh Lê  Quang Vinh và sẽ giải quyết bằng một vụ án khác khi các thừa kế của ông Thọ có tranh chấp nêu không thống nhất thỏa thuận phân chia được.

Xác định tài sản chung của anh M và chị Q trong thời kỳ hôn nhân  là 1.066.396.349 đồng. Ở cấp sơ thẩm do xác định tài sản chung của anh M, chị Q là 400.000.000 đồng nên anh M có thỏa thuận để chị Q sở hữu  số tiền này, tuy nhiên tại phiên tòa phúc thẩm anh M trình bày do chị Q không đồng ý nhận số tiền này mà đề nghị phân chia tài sản chung theo  quy định của pháp luật nên anh M cũng đề nghị HĐXX phân chia tài sản  chung theo quy định của pháp luật. Do vậy, căn cứ theo quy định tại  Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2015 để phân chia cho anh M  và chị Q mỗi người ½ giá trị tài sản chung, cụ thể mỗi người được phân  chia 1.066.396.349 đồng : 2 = 533.198.174 đồng. Anh Lê Anh M thỏa  thuận anh sẽ có trách nhiệm thanh toán cho chị Trần Thị Ngọc Q số tiền  533.198.174 đồng thay cho bà A và các đồng thừa kế của ông Lê Tuấn  T. Sau này anh M sẽ yêu cầu bà A và các thừa kế của ông Thọ thanh  toán trả anh sau. Hội đồng xét xử phúc thẩm ghi nhận sự tự nguyện thỏa  thuận này của anh M.

Từ nhận định nói trên, HĐXX thấy yêu cầu kháng cáo của chị Q là có căn cứ để chấp nhận một phần nên thống nhất sửa Bản án sơ thẩm  theo nội dung đã phân tích, đánh giá.

* Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên xử:

Sửa Bản án sơ thẩm 398/2020/HNGĐ-ST ngày 21/9/2020 của  Tòa án nhân dân quận N, thành phố Hà Nội với nội dung như sau: 

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện chia tài sản chung của vợ chồng sau ly  hôn của anh Lê Anh M đối với chị Trần Thị Ngọc Q. Bác yêu cầu của bà  Phạm Thị A về việc đề nghị tuyên bố “Hợp đồng chuyển nhượng quyền  sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất” giữa ông Trần D, bà Phan Thị Thanh P và anh Lê Anh M, chị Trần Thị Ngọc Q lập ngày 27/12/2007 được Văn phòng công chứng số 3, thành phố Hà Nội chứng thực, số công chứng 6367.2007/CNQSDĐ là vô hiệu.

Xác định nhà đất tại B12 lô B, khu dự án X3, phường C, quận N là tài  sản chung của bà Phạm Thị A, các đồng thừa kế của ông Lê Tuấn T, anh  Lê Anh M và chị Trần Thị Ngọc Q có giá trị 6.033.400.760 đồng, trong đó giá trị góp của anh M và chị Q là 6.033.400.760 đồng x 14,36% =  866.396.349 đồng. Công nhận công sức duy trì, tôn tạo cho anh M và chị Q là 200.000.000 đồng. Tổng giá trị là 1.066.396.349 đồng.

Bà Phạm Thị A, các đồng thừa kế của ông Lê Tuấn T là bà Phạm Thị A, chị Lê Thị Tuyết T, Lê Anh M … được sở hữu và sử dụng nhà đất tại  B12 lô B, khu dự án X3, phường C, quận N và có trách nhiệm thanh toán  cho anh Lê Anh M và chị Trần Thị Ngọc Q số tiền 1.066.396.349 đồng.

4. Bản án 78/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 của Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình về tranh chấp tài sản sau ly hôn.  

* Nội dung vụ án:

Anh D và chị N đã được giải quyết ly hôn. Tuy nhiên, trong quá trình sinh sống, anh D có vay số tiền của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam 187.000.000 đồng và Ngân hàng thương mại cổ phần bưu điện Liên Việt số tiền 22.500.000 đồng để tu sửa nhà  cửa, đồ dùng trong gia đình và chữa bệnh cho con. Đây là hai khoản vay  chung của anh D và chị N nên đề nghị Tòa giải quyết chia đôi số nợ trên. Trong khi đó, chị N trình bày rằng chị không hề biết hai khoản vay này anh D vay lúc nào và mục đích vay là gì nên không đồng ý với yêu  cầu của anh D.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định:

Đại diện hai ngân hàng trình bày, quá trình vay anh D đều đứng tên vay một mình không có chị N tham gia. Ngoài ra, anh D cũng không  đưa ra được các chứng cứ chứng minh cho việc vay vốn tại ngân hàng  phục vụ cuộc sống gia đình và cho con đi chữa bệnh. Trường hợp vay  tiền của anh D không thuộc các quy định tại Điều 27 và khoản 20 Điều  3 Luật hôn nhân và gia đình 2014, do đó chị N không có trách nhiệm trả nợ khoản nợ cùng với anh D.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên xử:

Không chấp nhận đơn khởi kiện của anh D yêu cầu chị N phải trả khoản vay tại hai ngân hàng số tiền là 187.000.000 đồng và  22.500.000 đồng.

5. Bản án 05/2020/HNGĐ-PT ngày 25/07/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông về tranh chấp tài sản sau ly hôn.

* Nội dung vụ án:

Anh T và chị M sau khi ly hôn không thực hiện đúng thỏa thuận về chia tài sản chung nên anh T khởi kiện yêu cầu Tòa phân chia tài sản  chung và nợ chung bao gồm: Tài sản chung: diện tích 11.120m2; thửa  đất 367,9m2; thửa đất 264m2, thửa đất 160m2 được chuyển nhượng bởi ông P và bà A; thửa đất 160m2 được chuyển nhượng bởi ông L và bà H; máy móc tại cửa hàng chị M. Nợ chung: ngân hàng C 2.600.000.000 tiền gốc và 300.000.000 tiền lãi; bà T 100.000.000 đồng; anh M  10.000.000 đồng; anh T 180.000.000 đồng; ông T 400.000.000 đồng.

* Toà án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định:

Đình chỉ giải quyết về diện tích đất 11.120m2, nợ Ngân hàng C 2.600.000.000 đồng tiền gốc và 300.000.000 đồng tiền lại, nợ bà T  100.000.000 đồng, nợ anh M 10.000.000 đồng, nợ anh T 180.000.000 đồng;

Đình chỉ yêu cầu của Ngân hàng C về nợ 945.845.386 đồng. Anh T  được chia tài sản chung gồm: diện tích đất 212,7m2 và diện tích đất  340,5m2.

Chị M được chia tài sản chung gồm: diện tích đất 280,7m2; cửa hàng trị giá 300.000.000 đồng. Anh T phải thanh toán cho chị M  1.000.000.000 đồng tiền chênh lệch trị giá tài sản được phân chia. Chị M trả cho anh T 984.500.000 đồng với khoản nợ của Ngân hàng C do  anh T đã thanh toán. Anh T và chị M, mỗi người phải trả 198.000.000  đồng cho anh T.

Sau đó, chị M kháng cáo.

* Toà án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:

Theo bản tự khai của chị M thì giá trị cửa hàng khoảng 300.000.000 đồng nên khi ly hôn chị M được giao quản lý của hàng với trị giá tài sản  300.000.000 đồng là có căn cứ. Chị M và anh T đều thừa nhận kể từ thời  điểm ly hôn khoản nợ đối với Ngân hàng chị M không thanh toán, anh T là người thanh toán. Chị M cho rằng số tiền đã thanh toán có nguồn gốc  từ tại sản chung 11.120m2 mà chị đã uỷ quyền cho anh T chuyển nhượng nhưng không có căn cứ chứng minh về toản thuận bán đất để trả Ngân hàng; anh T khai nguồn gốc trả số tiền trên là đi vay và có xác  nhận của người cho vay là anh T.

Vì vậy, chị M có nghĩa vụ trả cho anh T 984.500.000 đồng. Chị M  và anh T cùng tham gia nhóm hụi đồng hương nên cả chị M và anh T,  mỗi người phải trả cho anh T số tiềm 198.000.000 đồng là hoàn toàn  phù hợp.

* Toà án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên xử:

Không chấp nhận kháng cáo của chị M, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

6. Bản án 03/2020/DS-ST ngày 25/02/2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình về tranh chấp tài sản sau ly hôn.  

* Nội dung vụ án:

 Ông N và bà N sau khi ly hôn không thể tự phân chia được tài sản  chung nên yêu cầu Tòa án giải quyết phân chia tài sản chung đã được ông  bà thống nhất bao gồm: Diện tích đất 29,3m2 có giấy chứng nhận quyền  sử dụng đất mang tên ông N, bà N, 1 ngôi nhà 2,5 tầng. Nguồn gốc thửa  đất là do ông N và mẹ ông đi mua lại với giá 33 triệu đồng, nguồn tiền do  vợ chồng bán chiếc xe máy là tài sản riêng của ông N trị giá 18,5 triệu đồng và số tiền còn lại mẹ ông N đi vay về trả tiền đất và xây nhà một  tầng. Các tầng còn lại hai vợ chồng dùng tiền bán hàng để xây dựng. Ông  N đề nghị được chia bằng hiện vật để thờ cúng tổ tiên, ông N có trách  nhiệm thanh toán cho bà N bằng giá trị. Bà N cũng mong muốn được sở hữu nhà và quyền sử dụng đất để làm nơi buôn bán và nuôi con ăn học,  bà có trách nhiệm thanh toán cho ông N số tiền chênh lệch.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định:

Ông N không cầu chia tài sản riêng là phần đất mà ông N đã thanh  toán mà nhập vào khối tài sản chung để chia. Phần còn lại mẹ ông N đi  vay để trả tiền đất và xây nhà nhưng vợ chồng làm ăn chung để trả tiền nợ nên đây cũng là tài sản chung của ông bà. Xét về công sức đóng góp, ông  N đóng góp nhiều hơn nên chia phần giá trị nhiều hơn cho ông N. Do bà  N đang nuôi con và đất là nơi kinh doanh bán hàng nên căn cứ theo điểm  c khoản 2 và khoản 5 Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì việc  giao nhà và quyền sử dụng đất cho bà N sở hữu là phù hợp.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng giữa ông N và bà  N; Giao cho bà N sở hữu toàn bộ tài sản chung vợ chồng; Bà N có trách  nhiệm thanh toán tiền tài sản chênh lệch cho ông N số tiền là 866.988.000 đồng.

7. Bản án về tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn số 09/2021/HNGĐ-PT của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình

* Nội dung vụ án:

Bà Hoàng Thị L đăng ký kết hôn với ông Trần Văn T vào năm 1978. Sau một thời gian chung sống hạnh phúc thì phát sinh mâu thuẫn. Tháng 01/2019, bà L làm đơn khởi kiện xin ly hôn ông T tại Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình. Tháng 4/2019, bà L rút đơn khởi kiện, Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình đình chỉ giải quyết vụ án để vợ chồng đoàn tụ. Do mâu thuẫn vợ chồng không thể cải thiện được, tháng 5/2019 bà L tiếp tục làm đơn khởi kiện ly hôn, tranh chấp chia tài sản khi ly hôn.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 33/2019/HNGĐ-ST ngày 19/12/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình đã công nhận thuận tình ly hôn giữa bà L và ông T và phân chia tài sản chung của ông T bà L. Ông T kháng cáo về phần tài sản, tại bản án dân sự phúc thẩm số 06/2020/HNGĐ-PT ngày 25/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình đã chấp nhận đơn kháng cáo của ông T: Hủy bản án sơ thẩm số 33/2019/HNGĐ-ST ngày 19/12/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình về phần tài sản chung, chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại phần tài sản chung theo thủ tục sơ thẩm.

* Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Thị L và 1 phần yêu cầu phản tố của ông Trần Văn T: Chia tài sản chung của bà Hoàng Thị L và ông Trần Văn T như sau:

1.1. Giao cho ông Trần Văn T quyền sử dụng và sở hữu các tài sản sau: 01 nhà 02 tầng xây trên diện tích 92 m2 thuộc thửa đất số 204 có giá trị là 1.460.093.000 đồng. Thửa đất đã được UBND thành phố Ninh Bình cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BP 851352 ngày 20/8/2013 mang tên ông Trần Văn T và bà Hoàng Thị L; 01 nhà 03 tầng xây trên diện tích 88,3 m2 thuộc thửa đất số 205 có giá trị là 1.473.291.000 đồng; Thửa đất đã được UBND thành phố Ninh Bình cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CĐ 852632 ngày 12/8/2016 mang tên ông Trần Văn T và bà Hoàng Thị L; tổng giá trị tài sản ông Tiêu được giao là 2.933.384.000 đồng.

1.2. Giao cho bà Hoàng Thị L quyền sử dụng và sở hữu các tài sản sau: Thửa đất số 173 có giá trị 1.000.000.000 đồng đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Ninh Bình cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CM 871284 ngày 06/3/2018 mang tên ông Trần Văn T và bà Hoàng Thị L; số tiền bà Lan đã sử dụng riêng là 630.000.000 đồng; tổng giá trị tài sản bà Lan được giao là: 1.630.000.000 đồng.

Ông Trần Văn T có trách nhiệm thanh toán tiền chênh lệch tài sản cho bà Hoàng Thị L là 391.692.000 đồng. Ông Trần Văn T và bà Hoàng Thị L có trách nhiệm thanh toán cho anh Trần Văn T1 số tiền 126.000.000 đồng, theo phần mỗi người phải thanh toán 63.000.000 đồng. Bà Hoàng Thị L có quyền lưu cư 6 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Bà Hoàng Thị L và ông Trần Văn T có nghĩa vụ liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm các thủ tục để được đứng tên sử dụng đối với thửa đất được giao sử dụng theo quy định của pháp luật.

2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Trần Văn T về việc chia tài sản chung đối với số tiền 250.000.000 đồng bà L đã trả nợ; trả lại thửa đất số 204 và thửa đất số 205 cho cụ Trần Văn Ch, cụ Nguyễn Thị G; yêu cầu trả tiền công sức đóng góp của cụ Trần Văn Ch là 52.000.000 đồng.

Ngày 17/6/2021, ông T làm đơn kháng cáo Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2021/HNGĐ-ST ngày 09/6/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình với nội dung: Xem xét quyền lợi người thứ ba là vợ chồng ông Trần Văn Ch vì trong khối tài sản chung có tài sản của vợ chồng ông Ch và xem xét việc bà L đã thừa nhận lấy 880.000.000 đồng nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chỉ đưa 630.000.000 để chia tài sản chung.

* Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:

Về yêu cầu kháng cáo của đương sự.

1. Đối với yêu cầu kháng cáo của ông T đề nghị xem xét quyền lợi người thứ ba là vợ chồng ông Trần Văn Ch.

Quá trình giải quyết tại Tòa án cấp sơ thẩm, cụ G không có ý kiến gì, các đương sự khác đều trình bày cụ G tuổi cao, không còn minh mẫn nhưng cũng không có đương sự nào yêu cầu giám định năng lực hành vi dân sự đối với cụ G nên Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Về lý do kháng cáo của ông T cho rằng bố ông yêu cầu trả 42 cây vàng nhưng tại phiên tòa phúc thẩm ông T chỉ đề nghị Tòa án xem xét về 02 cây vàng 9999 có giá trị là 52.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không xem xét về 40 cây vàng.

2. Về công sức đóng góp vào khối tài sản chung: Anh T1, anh T2, chị Ph (các con của bà L, ông T) đều thừa nhận: Trong quá trình xây dựng 02 nhà trên thửa đất số 204 và thửa đất số 205, anh T1 có công sức đóng góp trông coi; còn vợ chồng anh T2, chị Ph không có công sức đóng góp gì; không biết về 02 cây vàng ông T khai ông bà nội cho để xây nhà. (Các bút lục số 435, 437, 443) sản trên thửa đất số 204 là một nhà 02 tầng và tài sản trên thửa đất số 205 là một nhà 03 tầng là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên cụ Ch cho rằng nhà ở thửa đất số 204 và thửa đất số 205 là nhà của cụ, ông T, bà L chỉ chụp mái lên nhà cụ nhưng cụ Ch không có chứng cứ chứng minh về vấn đề này.

Ông T xác định năm 2013, cụ Ch đưa cho ông 02 cây vàng có giá trị là 52.000.000 đồng để ông xây cho các cụ 1 gian nhà trên thửa đất số 204 nhưng ông T không có chứng cứ chứng minh. Bà L xác nhận khi xây tầng 02 của căn nhà nằm trên thửa đất số 204 thì trước đó đã có 01 gian nhà nhưng gian nhà này do bà bỏ tiền ra xây dựng, bà L không thừa nhận việc cụ Ch cho 02 cây vàng khi ông bà xây gian nhà trên.

Vì vậy Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của ông T về việc trả lại giá trị 02 cây vàng 9999 là 52.000.000 đồng cho cụ Ch là có căn cứ.

3. Về quyền sử dụng đất tại thửa đất số 204 và thửa đất số 205:

Theo hồ sơ chuyển quyền sử dụng đất và xác nhận của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Ninh Bình thì cụ Ch cụ G chuyển quyền sử dụng đất cho ông T bà L đối với thửa đất số 204 vào năm 2013 và thửa đất số 205 vào năm 2016 theo đúng quy định của Luật Đất đai.

Ngày 20/8/2013, ông T bà L được Ủy ban nhân dân thành phố Ninh Bình cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 92 m2. đất tại thửa đất số 204.

Ngày 12/8/2016, ông T bà L được Ủy ban nhân dân thành phố Ninh Bình cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 88,3 m2 đất tại thửa đất số 205.

Từ khi ông T bà L được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đến khi có việc ly hôn của ông T bà L, gia đình cụ Ch cũng không ai có khiếu nại gì về việc cấp quyền sử dụng đất và xây nhà. Điều đó thể hiện ý chí của cụ Ch cụ G là đã chuyển quyền sử dụng đất cho ông T bà L.

Như vậy, ông T bà L được tặng cho quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 204 và thửa đất số 205 trong thời kỳ hôn nhân. Căn cứ Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định quyền sử dụng đất 92m2 thuộc thửa đất số 204 và quyền sử dụng đất 88,3m2 thuộc thửa đất số 205 là tài sản chung của ông T, bà L. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của ông T, cụ Ch về việc trả lại cho cụ Ch và cụ G thửa đất số 204 và thửa đất số 205 là có căn cứ. Do đó, ông T kháng cáo yêu cầu xem xét quyền lợi người thứ ba là vợ chồng cụ Trần Văn Ch vì trong khối tài sản chung có tài sản của vợ chồng cụ Ch là không có căn cứ. Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận đề nghị tại phiên tòa của ông T về việc sửa bản án sơ thẩm để tính công sức đóng góp của người thứ ba là vợ chồng cụ Ch.

4. Đối với kháng cáo của ông T đề nghị xem xét việc bà L đã thừa nhận lấy 880.000.000 đồng nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chỉ đưa 630.000.000 để chia tài sản chung. Trong quá trình giải quyết tại Tòa án cấp sơ thẩm, ông T thừa nhận “Lúc đó tôi nhất trí bà L dùng số tiền đó trả nợ nên tôi không yêu cầu bà L trình bày việc trả nợ cho ai và sử dụng vào việc gì với số tiền 250.000.000 đồng”. Anh T2, anh T1 đều khai số tiền 250.000.000 đồng bà L trả nợ, lúc đó gia đình chưa xảy ra mâu thuẫn gì.

Thời điểm bà L dùng số tiền 250.000.000 đồng để trả nợ khi vợ chồng chưa có mâu thuẫn gì, ông T biết nhưng không phản đối, thể hiện sự đồng thuận của ông T trong việc sử dụng số tiền 250.000.000 đồng để bà L trả nợ nên số tiền 250.000.000 đồng không còn tồn tại trong khối tài sản chung vợ chồng. Do vậy Tòa án cấp sơ thẩm chỉ chấp nhận số tiền 630.000.000 đồng là tài sản chung vợ chồng và chia theo quy định pháp luật là có căn cứ.

Tòa án cấp sơ thẩm tính công sức đóng góp của ông T đối với quyền sử dụng đất của thửa đất số 204, thửa đất số 205 và chia tài sản chung cho ông T hưởng phần giá trị quyền sử dụng đất nhiều hơn bà L theo tỷ lệ ông T được hưởng 70%, bà L được hưởng 30% (tức ông T được hưởng 910.000.000 đồng, bà L được hưởng 390.000.000 đồng) là có căn cứ, phù hợp với khoản 2 Điều 59 của Luật Hôn nhân và Gia đình, đảm bảo quyền lợi của ông T nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông T về vấn đề này.

* Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên xử:

Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 12/2021/HNGĐ-ST ngày 09/6/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình.

8. Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 68/2022/HNGĐ-ST ngày 14 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa về tranh chấp tài sản sau ly hôn.

*Nội dung vụ án:

Bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Văn P trước kia là vợ chồng  nhưng đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa  thuận của các đương sự số 100/2020/QĐST-HNGĐ ngày 28/8/2020 của  Tòa án nhân dân thành phố Cam Ranh. Theo quyết định này thì bà H và ông P tự thỏa thuận về chia tài sản nên Tòa án không xem xét. Nay, hai  Ông Bà không thỏa thuận được tài sản chung bao gồm: Quyền sử dụng  đất thửa đất số 87 (tờ bản đồ 91, diện tích đất 332,0 m2, địa chỉ: tổ dân  phố Nghĩa Cam, phường Cam Nghĩa, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh  Hòa, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản  khác gắn liền với đất số CL 854512, số vào sổ cấp GCN: CH 08287 ngày 05/01/2018 cho ông Nguyễn Văn P và bà Nguyễn Thị H) và tài sản  gắn liền với đất của thửa đất nêu trên. Do đó, Bà H làm đơn khởi kiện  ông P yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết chia tài sản nhà đất theo  hướng chia hiện vật cho cả hai bên, ông P được nhận hiện vật lớn hơn  thì có trách nhiệm thanh toán lại tiền cho bà H.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp là “Chia tài sản sau  khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện chia tài sản chung  vợ chồng sau khi ly hôn đối với Quyền sử dụng thửa đất số 87, tờ bản  đồ 91, diện tích đất 332,0 m2, địa chỉ: tổ dân phố Nghĩa Cam, phường  Cam Nghĩa, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa. Trên đất có hàng  rào B40, trụ bê tông bao quanh toàn bộ diện tích đất nhưng nguyên đơn  không yêu cầu Tòa án phân chia nên Hội đồng xét xử không xét.

Theo định giá của Hội đồng định giá tại Biên bản định giá tài sản  ngày 19/5/2022 thì diện tích đất tranh chấp có giá trị là 40.000.000  đồng/1m2, tổng giá trị tài sản tranh chấp là 13.280.000.000 đồng (Mười  ba tỷ hai trăm tám mươi triệu đồng). Tại phiên tòa, nguyên đơn thống  nhất giá trị tài sản tranh chấp nêu trên.

Diện tích đất 332,0 m2, thửa đất số 87, tờ bản đồ 91, địa chỉ: tổ dân  phố Nghĩa Cam, phường Cam Nghĩa, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh  Hòa là tài sản chung của ông Nguyễn Văn P và bà Nguyễn Thị H trong  thời kỳ hôn nhân nên được chia đôi. Bà Nguyễn Thị H yêu cầu phân  chia làm hai phần đất là: Phần đất diện tích 142m2 có ký hiệu 87-2 và  phần đất 190m2 có ký hiệu 87-1 (theo sơ đồ thửa đất kèm theo), việc  phân chia thành hai phần có ký hiệu như trên đủ điều kiện về diện tích  tối thiểu để tách thửa, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Phần diện tích đất của ông Nguyễn Văn P lớn hơn (có giá trị lớn  hơn) của bà Nguyễn Thị H. Tuy nhiên, bà H không yêu cầu ông P phải thanh toán lại phần chênh lệch vì cho rằng giá trị của hai phần đất được  phân chia là bằng nhau, đây là sự tự nguyện của bà H nên được Hội  đồng xét xử chấp nhận.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Phân chia tài sản chung sau khi ly hôn của ông Nguyễn Văn P và bà Nguyễn Thị H đối với diện tích đất 332,0 m2, thửa đất số 87, tờ bản  đồ 91, đất ở đô thị, thời hạn sử dụng: lâu dài, địa chỉ: tổ dân phố Nghĩa  Cam, phường Cam Nghĩa, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa đã  được UBND thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa cấp Giấy chứng  nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với  đất số CL 854512, số vào sổ cấp GCN: CH 08287 ngày 05/01/2018.

Giao cho bà Nguyễn Thị H được sử dụng phần đất diện tích 142m2  có ký hiệu 87-2 (theo sơ đồ thửa đất kèm theo Bản án); Giao cho ông  Nguyễn Văn P được sử dụng phần đất diện tích 190m2 có ký hiệu 87-1  (theo sơ đồ thửa đất kèm theo Bản án).

9. Bản án Hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 25/2022/HNGĐ-PT ngày 19 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về tranh chấp tài sản sau ly hôn.

* Nội dung vụ án:

Bà Phạm Thị Ngọc Th và ông Trần Trọng N là vợ chồng chung sống với nhau từ năm 2000 nhưng đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 74/2021/QĐSTHNGĐ ngày 05/02/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Quá trình chung sống hai ông, bà có 02 con chung là Trần Ngọc N, sinh năm 2000 và Trần Thư Th, sinh năm 2006. Về tài sản trong quá trình chung sống hai ông, bà có tài sản chung gồm có: quyền sử dụng đất có diện tích 89,0m2 thuộc thửa số 2857, tờ bản đồ số 3DH.1 tọa lạc khu phố Tây B, phường Đông Hòa, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, trên đất gắn liền là 01 căn nhà 02 tầng có diện tích sàn 75,1m2. Vì lý do, khi ly hôn chưa chia tài sản chung nên nay bà Th khởi kiện ông N yêu cầu Tòa án có thẩm quyền chia tài sản chung sau khi ly hôn với ông N. Bà Th yêu cầu chia đôi tài sản chung và được hưởng ½ giá trị tài sản, ông N là người nhận đất có trách nhiệm thanh toán cho bà Th ½ giá trị tài sản.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn bà Phạm Thị Ngọc Th về việc tranh chấp chia tài sản chung sau ly hôn với bị đơn ông Trần Trọng N. Ông Trần Trọng N được quyền sử dụng đất có diện tích 89,0m2, thuộc thửa đất số 2857, tờ bản đồ số 3DH.1 tọa lạc khu phố Tây B, phường Đông Hòa, thị xã Dĩ An (nay là thành phố Dĩ An), tỉnh Bình Dương theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ024502, số vào sổ cấp giấy chứng nhận số CH07583 do Uỷ ban nhân dân thị xã Dĩ An (nay là thành phố Dĩ An) cấp ngày 17/5/2014 cấp cho ông Trần Trọng N, bà Phạm Thị Ngọc Th và 01 căn nhà 02 tầng có diện tích sàn 75,1m2 (có bản vẽ kèm theo). Ông Trần Trọng N có trách nhiệm thanh toán cho bà Phạm Thị Ngọc Th 35% giá trị tài sản với tổng số tiền là 1.229.728.600 (một tỷ hai trăm hai mươi chín triệu bảy trăm hai mươi tám nghìn sáu trăm) đồng.

Ngày 14/6/2022, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An có Quyết định kháng nghị số 03/QĐ-VKS-HNGĐ kháng nghị một phần Bản án sơ thẩm theo hướng giảm tỉ lệ chia tài sản cho N đơn.

* Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:

Về nội dung: Xét kháng cáo của bị đơn ông Trần Trọng N: Nguyên đơn (bà Phạm Thị Ngọc Th) và bị đơn (ông Trần Trọng N) là vợ chồng chung sống với nhau từ năm 2000 nhưng đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 74/2021/QĐSTHNGĐ ngày 05/02/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Quá trình chung sống về tài sản gồm có: quyền sử dụng đất có diện tích 89,0m2 thuộc thửa số 2857, tờ bản đồ số 3DH.1 tọa lạc khu phố Tây B, phường Đông Hòa, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, trên đất gắn liền là 01 căn nhà 02 tầng có diện tích sàn 75,1m2.

Tài sản chung hai bên thống nhất xác định: Nguồn gốc đất là do cha, mẹ bị đơn (ông Trần Ngọc Đang và bà Đinh Thị Thu Phượng) cho bị đơn vào năm 2002. Quá trình sử dụng nhà ở thì Nguyên đơn và bị đơn cùng sử dụng, quản lý nhà đất và có sửa chữa nhà. Việc bị đơn thống nhất làm thủ tục nhà, đất và để cho Nguyên đơn cùng đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thể hiện ý chí của bị đơn đồng ý nhập khối tài sản chung nhà đất là tài sản chung của Nguyên đơn và bị đơn. Từ khi nhận Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất bị đơn không khiếu nại hay thắc mắc gì. Do đó căn cứ Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, thì tài sản tranh chấp trên là tài sản chung của Nguyên đơn và bị đơn trong thời kỳ hôn nhân.

Tài sản chung của hai bên được chia theo quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình. Do nguồn gốc nhà, đất do cha mẹ bị đơn tặng cho mà có và hiện nay bị đơn đang trực tiếp cùng 02 con (Trần Ngọc N và Trần Thư Th) sống trong căn nhà, đất tranh chấp; hơn nữa Nguyên đơn chỉ yêu cầu được nhận bằng giá trị tài sản (không yêu cầu nhận hiện vật) nên Tòa án sơ thẩm giao toàn bộ tài sản tranh chấp bằng hiện vật cho bị đơn sở hữu, sử dụng là có căn cứ.

Về phía Nguyên đơn hiện nay cũng chưa có chỗ ở ổn định, phải thuê nhà trọ để ở, do đó Tòa án sơ thẩm đã xem xét hoàn cảnh cũng như công sức của các bên và chia cho Nguyên đơn 35% khối tài sản tranh chấp; chia cho bị đơn 65% khối tài sản tranh chấp. Bị đơn có nghĩa vụ thanh toán cho Nguyên đơn 35% giá trị khối tài sản tranh chấp tương ứng với số tiền là 1.229.728.6000 đồng là hợp lý và phù hợp với quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Nguyên đơn kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ gì mới. Do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của N đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn cho rằng quyền sử dụng đất là tài sản riêng của bị đơn là không có căn cứ nên không được chấp nhận.

* Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên xử:

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với Quyết định kháng nghị số 03/QĐVKS-HNGĐ ngày 14/6/2022 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

2. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Trần Trọng N: Giữ N Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 74/2022/HNGĐ-ST ngày 02/6/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

10. Bản án Hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 71/2022/HNGĐ-ST ngày 08 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình về tranh chấp tài sản sau ly hôn.

* Nội dung vụ án:

Anh Đỗ Văn Ch và chị Nguyễn Thị Minh L đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 163/2021/QĐST- HNGĐ ngày 29/12/2021 của Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Khi giải quyết ly hôn, anh Ch và chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết phân chia tài sản mà để tự thỏa thuận giải quyết với nhau. Nhưng từ sau khi ly hôn đến nay, anh và chị L không thỏa thuận giải quyết phân chia tài sản với nhau được. Toàn bộ tài sản hiện chị L vẫn đang quản lý không phân chia cho anh. Vì vậy, ngày anh Ch đã làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án có Thẩm quyền chia tài sản chung của hai anh chị sau khi ly hôn bao gồm tài sản là cả động sản và bất động sản.

* Tòa án nhân dân cấp sơc thẩm nhận định:

Về nội dung: Xét yêu cầu chia tài sản sau khi ly hôn của nguyên đơn, thấy: Anh Ch, chị L đã ký hợp đồng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 10, tờ bản đồ số 14, thôn Hà Lý, xã Hùng Dũng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Đối với thửa đất số 8, tờ bản đồ số 14, thôn Hà Lý, xã Hùng Dũng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, mặc dù không có hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng chủ sử dụng thửa đất số 8 là anh Đỗ Ngọc A và chị Đỗ Thị Á xác nhận đã chuyển nhượng cho anh Ch, chị L cùng thời điểm chuyển nhượng thửa đất số 10; hai bên không có tranh chấp và yêu cầu gì. Do đó, có căn cứ xác định thửa đất số 10 và thửa đất số 8 cùng toàn bộ tài sản trên đất là tài sản chung của anh Ch, chị L hình thành trong thời kỳ hôn nhân.

Hiện chị L đang quản lý sử dụng toàn bộ diện tích đất và tài sản trên đất. Diện tích đo đạc hiện trạng chênh lệch so với số liệu đo đạc năm 2006 là do có sự sai số khi đo đạc nên cần căn cứ số liệu đo đạc hiện trạng để giải quyết. Chị L yêu cầu chia tài sản cho cả 03 con chung nhưng không có cơ sở chấp nhận, bởi lẽ: 03 con chung đều còn nhỏ và việc chia tài sản chung của anh Ch, chị L không liên quan đến 03 con chung của anh Ch, chị L.

Để đảm bảo quyền lợi của các đương sự, cần chia đôi diện tích đất bằng hiện vật cho anh Ch và chị L. Giao cho chị L quyền sử dụng và sở hữu phần diện tích đất ở và đất nuôi trồng thủy sản cùng tài sản trên phần đất được chia là ngôi nhà cấp 04 (nhà ở) và một phần ngôi nhà ngang cấp 4 (nhà kho); lán tôn, sân vườn, bờ ao, cây cối trên đất; giao cho anh Ch quyền sử dụng và sở hữu phần diện tích đất ở và đất nuôi trồng thủy sản còn lại cùng tài sản trên đất là một phần ngôi nhà ngang cấp 4 (nhà kho); bếp, bể nước mưa, sân vườn, bờ ao, cây cối trên đất. Việc thanh toán giá trị chênh lệch tài sản giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định:

1. Chấp nhận yêu cầu chia tài sản sau khi ly hôn của anh Đỗ Văn Ch. Xử Chia và Mỗi bên sẽ được nhận hiện vật và Chị L phải có trách nhiệm thanh toán giá trị chênh lệch tài sản cho anh Ch số tiền là 67.901.700 đồng làm tròn số 67.902.000 đồng. Anh Ch được quyền sở hữu số tiền do chị L thanh toán nêu trên.

2. Về chi phí tố tụng: Anh Ch tự nguyện chịu toàn bộ chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 5.700.000 đồng (Năm triệu bẩy trăm nghìn đồng). Anh Ch đã nộp xong.

Trên đây là danh sách 10 bản án về tranh chấp tài sản sau ly hôn. Nhằm mang lại dịch vụ pháp lý tốt nhất cho khách hàng, mọi thắc mắc cần giải đáp khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi theo thông tin phía dưới.

          Công ty Luật TNHH MTV DB (DB Legal) là Công ty Luật Việt Nam cung cấp các dịch vụ pháp lý uy tín, chuyên nghiệp. Với đội ngũ nhân sự trách nhiệm, có chuyên môn cao, DB Legal là đối tác tin cậy cho khách hàng cá nhân và doanh nghiệp trong các vấn đề pháp lý tại Việt Nam.

Để biết thêm thông tin chi tiết vui lòng liên hệ với chúng tôi

Local Office Numbers:
Hotline/Zalo/Whatsapp: +84 357 466 579
Email: contact@dblegal.vn

Liên hệ

Địa chỉ 1: Tầng 3, Tòa nhà Indochina Riverside Tower, 74 Bạch Đằng, Quận Hải Châu, Thành phố Đà Nẵng, Việt Nam

Địa chỉ 2: 28 Thanh Lương 20, Phường Hòa Xuân, Quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng

Hotline 1: (+84) 357 466 579

Hotline 2: (+84) 985 271 242

Điện thoại: (+84) 236.366.4674

Email: contact@dblegal.vn

zalo
facebook