SO SÁNH QUY ĐỊNH ÁP DỤNG CHO TRƯỜNG CÔNG LẬP, TRƯỜNG TƯ THỤC TRONG NƯỚC, VÀ TRƯỜNG CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Theo Luật Giáo dục năm 2019 (sửa đổi, bổ sung 2025), hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam từ bậc mầm non đến hết trung học phổ thông gồm các cấp: mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông. Giáo dục trung học phổ thông được tổ chức trong 03 năm học (từ lớp 10 đến lớp 12). Các loại hình trường phổ thông tương ứng được phân chia thành ba nhóm chính: trường công lập, trường dân lập (chỉ áp dụng ở bậc mầm non) và trường tư thục do nhà đầu tư trong nước hoặc nhà đầu tư nước ngoài thành lập. Trường công lập do Nhà nước đầu tư và đảm bảo các điều kiện hoạt động. Trường dân lập là trường mầm non được thành lập và quản lý bởi cộng đồng dân cư địa phương. Trường tư thục được thành lập bởi chủ đầu tư (cá nhân, tổ chức) trong nước hoặc có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy, cả ba loại hình trường công lập, tư thục trong nước, và có vốn nước ngoài đều thuộc hệ thống giáo dục phổ thông và đều chịu sự điều chỉnh của Luật Giáo dục và các văn bản hướng dẫn đi kèm.
Mục lục:
Luật Giáo dục 2019 quy định chung rằng mọi trường học – bất kể công lập hay tư thục – phải tuân thủ các điều kiện thành lập và điều kiện được phép hoạt động. Theo Điều 49 Luật Giáo dục, để được thành lập, trường học phải có Đề án thành lập chi tiết phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội và quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục. Đề án này xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, chương trình và nội dung giáo dục; quỹ đất, cơ sở vật chất, trang thiết bị; cơ cấu tổ chức, nguồn lực và tài chính; cũng như phương hướng xây dựng và phát triển của nhà trường.
Khi đi vào hoạt động, trường học bắt buộc đảm bảo đầy đủ điều kiện về cơ sở vật chất và thiết bị giáo dục, môi trường an toàn cho người học và nhân sự; có chương trình giáo dục và tài liệu giảng dạy phù hợp với mỗi cấp học; đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý đạt chuẩn, đủ về số lượng và phù hợp về cơ cấu; đồng thời có đủ nguồn lực tài chính để duy trì hoạt động và phát triển giáo dục. Mọi trường phải xây dựng quy chế tổ chức và hoạt động theo quy định. Nếu trường chưa đáp ứng đủ các điều kiện này trong thời hạn cho phép, cơ quan có thẩm quyền sẽ thu hồi quyết định thành lập hoặc quyết định cho phép hoạt động đã cấp. Như vậy, khung quy định chung là như nhau cho tất cả các loại hình trường, nhưng trong thực tiễn áp dụng sẽ phát sinh sự khác biệt liên quan đến tính chất của từng loại hình (ví dụ: hình thức tài trợ, cơ quan cho phép thành lập, phạm vi vốn).
1. Trường công lập:
Trường công lập được thành lập theo chủ trương của Nhà nước và quyết định của cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền. Cụ thể, tại Điều 52 Luật Giáo dục 2019 quy định Chủ tịch UBND cấp huyện phê duyệt thành lập trường công lập các cấp mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, phổ thông nhiều cấp học cao nhất là THCS; Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định đối với trường THPT và phổ thông nhiều cấp cao nhất là THPT; Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) có thẩm quyền với một số trường đặc thù hoặc do cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài đề nghị. Như vậy, cơ chế thành lập trường công lập tuân thủ theo cơ cấu quản lý nhà nước, không yêu cầu chủ đầu tư bỏ vốn theo nghĩa thông thường, mà do ngân sách cấp.
Tài chính và cơ sở vật chất: Các trường công lập được Nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và nhận ngân sách định kỳ để trang trải chi thường xuyên. Đất đai và cơ sở vật chất của trường công lập thuộc quyền sở hữu (hoặc quản lý) của Nhà nước, nên quá trình cấp phép thành lập thường gắn với việc giao đất, kinh phí xây dựng, trang thiết bị do ngân sách hỗ trợ. Trường công lập phải đạt chuẩn cơ sở vật chất theo quy định chung của Bộ GDĐT (như diện tích đất tối thiểu theo quy mô lớp học, hệ thống phòng học, phòng chức năng, trang thiết bị đáp ứng chương trình) tương tự như quy định đối với các trường khác. Tuy nhiên, do được ngân sách đảm bảo, trường công lập không phải đáp ứng yêu cầu vốn tự có như trường tư thục; nguồn lực tài chính của trường chủ yếu là ngân sách Nhà nước và các khoản thu học phí do Nhà nước quản lý mức trần (không vì mục đích lợi nhuận).
Chương trình và đội ngũ: Trường công lập bắt buộc giảng dạy chương trình giáo dục phổ thông theo quy định của Nhà nước (Theo Luật Giáo dục, chương trình GDPT phải thực hiện thống nhất trên cả nước, được Bộ GDĐT ban hành). Đội ngũ giáo viên công lập được tuyển dụng theo biên chế hoặc hợp đồng công chức, thường phải đạt chuẩn theo quy định của Bộ GDĐT. Chế độ tiền lương, chính sách đối với giáo viên công lập tuân thủ quy định của Nhà nước (ví dụ Luật Viên chức, Luật Giáo viên). Trường công lập không được phân chia lợi nhuận; mọi khoản thu đều phải công khai và sử dụng theo quy định ngân sách (Luật Giáo dục 2019 cho phép trường công chủ động xây dựng mức thu để bù đắp chi phí nhưng phải công khai cam kết và không vì lợi nhuận).
2. Trường tư thục trong nước:
Cũng theo Luật Giáo dục và các quy định hướng dẫn, trường tư thục (trường dân lập ở mầm non hoặc các trường tư thục ở tiểu học, THCS, THPT) được thành lập khi có nhà đầu tư (cá nhân, tổ chức trong nước) đề xuất và được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép. Việc này tương tự cơ chế cho trường công lập; theo Điều 52, Chủ tịch UBND cấp huyện hoặc cấp tỉnh sẽ quyết định cho phép thành lập trường dân lập, tư thục tùy theo cấp học. Đề án thành lập do nhà đầu tư lập ra cần trình bày rõ phương án pháp lý (tư cách pháp nhân thành lập trường), vốn đầu tư, kế hoạch về cơ sở vật chất, chương trình giáo dục, đội ngũ giáo viên và tài chính. Nhà đầu tư phải là cá nhân/tổ chức được phép kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục (đối với tư nhân phải thành lập công ty hoặc quỹ tài trợ giáo dục theo quy định của Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp).
Khác với trường công lập, trường tư thục bắt buộc phải có nguồn lực tài chính do nhà đầu tư đảm bảo. Luật Giáo dục yêu cầu “có đủ nguồn lực tài chính” để duy trì và phát triển hoạt động giáo dục. Mặc dù pháp luật hiện chưa quy định mức vốn tối thiểu cụ thể cho trường tư thục (ngoại trừ một số quy định về dự án đầu tư tại Nghị định 125/2024/NĐ-CP), trên thực tế khi thẩm định thành lập, cơ quan quản lý sẽ xem xét phương án huy động vốn, kế hoạch thu học phí và các nguồn tài chính khác. Trường tư thục tự chủ tài chính, được phép xây dựng mức thu học phí và dịch vụ sao cho đảm bảo chi phí và có tích lũy hợp lý. Tuy nhiên, mức thu phải công khai đầy đủ và không thu vượt khung quy định của Nhà nước; phần lợi nhuận thu được (nếu có) tái đầu tư vào trường thay vì chia cổ tức (trường tư thục không vì lợi nhuận).
Để được cấp phép, trường tư thục phải có diện tích đất và cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu như quy định chung tại Điều 49. Thông thường, quy định về chuẩn cơ sở vật chất của trường phổ thông (cả công lập và tư thục) được quy định chi tiết tại các thông tư của Bộ GDĐT. Ví dụ, theo hướng dẫn hiện hành, trường phổ thông cần có sân chơi, sân tập thể thao, phòng học bộ môn, thư viện, nhà đa năng, bãi để xe, phòng y tế học đường, hệ thống nước sạch và phòng vệ sinh phù hợp quy mô. Tất cả đều nhằm đảm bảo điều kiện dạy và học an toàn, hiệu quả. Nhà đầu tư tư thục có thể thuê đất hoặc sử dụng đất được Nhà nước giao/thuê theo quy định để xây trường, nhưng phải bảo đảm điều kiện về diện tích trung bình (ví dụ tối thiểu 6 m²/học sinh ở khu vực thành thị, 10 m²/học sinh ở nông thôn cho cơ sở phổ thông).
Trường tư thục tuyển dụng và trả lương cho đội ngũ giáo viên của mình. Tất cả giáo viên (dân lập hoặc tư thục) đều phải đạt chuẩn nghề nghiệp theo quy định của Bộ GDĐT. Luật Giáo dục chỉ nêu chung “có đội ngũ nhà giáo…đạt tiêu chuẩn, đủ về số lượng” để bảo đảm chương trình giáo dục, tương đương yêu cầu đối với trường công lập. Các quy chuẩn cụ thể (trình độ, chứng chỉ, tỉ lệ giáo viên – học sinh,…) được hướng dẫn bởi các thông tư chuyên ngành (ví dụ chuẩn giáo viên tiểu học, THCS, THPT). Nhà đầu tư tư thục cũng phải tổ chức giảng dạy chương trình giáo dục theo quy định quốc gia; nếu tổ chức chương trình song ngữ hoặc quốc tế (ví dụ giảng dạy một số môn bằng ngoại ngữ), vẫn bắt buộc đảm bảo các nội dung giáo dục bắt buộc theo tiêu chuẩn của Bộ GDĐT. Chương trình phổ thông phải thống nhất về nội dung cơ bản trên cả nước, dù hình thức có thể đa dạng.
Về pháp lý, trường tư thục hoạt động theo nguyên tắc tự chủ và tự chịu trách nhiệm. Họ có quyền tự xây dựng kế hoạch phát triển, quy chế tổ chức, tài chính, nhân sự…; đồng thời phải tuân thủ các quy định công khai tài chính, tài sản theo luật định. Nhà nước khuyến khích phát triển tư thục, nên luật có chính sách ưu đãi (hỗ trợ về thuế, đất đai trong một số trường hợp) và cho phép trường tư thục được thuê hoặc nhận tài trợ cơ sở vật chất. Song song đó, trường tư thục chịu sự kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý giáo dục về chất lượng đào tạo, an toàn trường học và quản lý tài chính.
3. Trường có vốn đầu tư nước ngoài:
Trường có vốn đầu tư nước ngoài là trường tư thục được tổ chức kinh tế có vốn nước ngoài đầu tư thành lập và hoạt động. Các quy định về loại hình này được pháp luật Việt Nam cho phép và cụ thể hóa trong Nghị định số 86/2018/NĐ-CP (sửa đổi bởi Nghị định 124/2024/NĐ-CP) về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục. Nghị định này quy định đầy đủ về trình tự, thủ tục, cũng như điều kiện đặc thù đối với trường có vốn nước ngoài.
Khi nhà đầu tư nước ngoài muốn thành lập trường phổ thông tại Việt Nam, họ phải tuân thủ trình tự gồm ba bước: (a) được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (đáp ứng các điều kiện theo Luật Đầu tư); (b) có Quyết định cho phép thành lập trường của cơ quan giáo dục có thẩm quyền; (c) có Quyết định cho phép hoạt động giáo dục chính thức. Điểm khác biệt so với trường trong nước là bước đầu tiên bắt buộc phải có Giấy chứng nhận đầu tư. Thêm vào đó, Nghị định 86/2018/NĐ-CP quy định tên gọi, thời hạn, quyền và nghĩa vụ của cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài. Ví dụ, tên trường phải rõ ràng, không gây hiểu nhầm về tổ chức và nội dung hoạt động; thời hạn hoạt động không quá 50 năm kể từ khi cấp giấy chứng nhận đầu tư.
Nghị định số 86/2018/NĐ-CP quy định rất chi tiết vốn đầu tư tối thiểu khi thành lập cơ sở giáo dục có vốn nước ngoài. Cụ thể, dự án thành lập trường phổ thông (từ tiểu học đến THPT) phải có suất đầu tư tối thiểu 50 triệu đồng/học sinh và tổng vốn đầu tư ít nhất 50 tỷ đồng. Khi thẩm định cho phép hoạt động, nhà đầu tư phải giải ngân được trên 50% vốn đầu tư này và cam kết hoàn thành phần còn lại trong vòng 05 năm kể từ khi được phép hoạt động. Đối với trường mầm non, suất đầu tư tối thiểu 30 triệu đồng/trẻ (quy định tương tự cũng áp dụng). Ngoài ra, nếu đầu tư bằng cách thuê lại cơ sở vật chất có sẵn, nhà đầu tư vẫn phải có mức vốn tối thiểu đạt 70% so với quy định trên.
Về cơ sở vật chất, các tiêu chuẩn áp dụng tương tự trường phổ thông nói chung. Đất xây trường phải đảm bảo diện tích theo quy mô. Ví dụ, Nghị định quy định trường phổ thông phải có diện tích xây dựng trung bình tối thiểu 6 m²/học sinh ở khu vực thành thị và 10 m²/học sinh ở khu vực nông thôn, diện tích sàn học tập tối thiểu 2,5 m²/học sinh. Trường phải có khu sân chơi, phòng học bộ môn, thư viện, phòng máy tính, phòng nghệ thuật, khu thể thao, nhà ăn (nếu có bán trú), v.v. và đầy đủ trang thiết bị, dụng cụ giảng dạy theo quy định hiện hành. Nhà đầu tư có vốn nước ngoài được phép thuê hoặc mua đất phù hợp, nhưng thời hạn thuê đất phải đáp ứng thời hạn cấp phép hoạt động (không được kéo dài hơn giấy phép đầu tư).
Giáo viên ở các trường có vốn nước ngoài phải đáp ứng quy định chung về chuẩn mực của Việt Nam. Nghị định quy định cụ thể đối với giáo viên trường phổ thông có vốn nước ngoài: giáo viên bắt buộc phải có bằng đại học sư phạm hoặc tương đương trở lên; số lượng tối thiểu phải đảm bảo tỷ lệ ít nhất 1,5 giáo viên/lớp với tiểu học, 1,95 giáo viên/lớp với THCS và 2,25 giáo viên/lớp với THPT; sĩ số học sinh/lớp không vượt quá 30 ở tiểu học và 35 ở THCS, THPT. Những yêu cầu này cao hơn ngưỡng tối thiểu chung, nhằm đảm bảo chất lượng. Đối với chương trình, trường có vốn nước ngoài có thể tổ chức giảng dạy chương trình của Việt Nam theo pháp luật hiện hành; đồng thời được phép áp dụng chương trình giáo dục nước ngoài tại Việt Nam nếu đáp ứng các điều kiện nghiêm ngặt. Các chương trình nước ngoài đưa vào Việt Nam phải được cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại công nhận hoặc kiểm định chất lượng; không có nội dung vi phạm an ninh, quốc phòng, truyền bá tôn giáo trái phép, xuyên tạc lịch sử hoặc trái thuần phong mỹ tục Việt Nam. Đặc biệt, nếu chương trình nước ngoài được giảng dạy cho học sinh Việt Nam, Bộ GDĐT quy định một số môn học, nội dung bắt buộc để đảm bảo mục tiêu giáo dục quốc gia (ví dụ giáo dục quốc phòng, lịch sử, đạo đức Việt Nam). Trong thực tế, nhiều trường có vốn nước ngoài (trường “quốc tế”) thường kết hợp chương trình quốc gia với chương trình ngoại ngữ mạnh, hoặc dạy song song hai chương trình cấp bằng Việt Nam và quốc tế, nhưng tất cả đều phải tuân thủ khung cơ bản của Bộ GDĐT.
Ngoài ra, trường có vốn nước ngoài có quyền và nghĩa vụ tương tự trường tư thục thông thường (quản lý nhân sự, tự chủ về tổ chức, công khai tài chính…). Pháp luật đặc biệt quy định các cơ sở này phải công bố công khai cam kết về chất lượng và tài chính giáo dục. Trường có vốn nước ngoài chịu sự quản lý hành chính theo địa giới của UBND tỉnh nơi đặt trường và quản lý chuyên môn của Bộ GDĐT. Trường được bảo hộ quyền lợi hợp pháp như quy định chung và theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Nếu trường có vốn nước ngoài chấm dứt hoạt động, quy định về bảo vệ quyền lợi học sinh, giáo viên, và nghĩa vụ bồi hoàn cho học sinh được nộp chi phí đã học cũng áp dụng chặt chẽ hơn.
4. Đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài vào giáo dục phổ thông:
Nếu nhà đầu tư nước ngoài có nhu cầu đầu tư thành lập trường phổ thông tại Việt Nam, họ phải tuân thủ khung pháp lý hai chiều: luật Đầu tư và luật Giáo dục. Theo Luật Đầu tư 2020, giáo dục là ngành kinh doanh có điều kiện, vì thế nhà đầu tư nước ngoài phải đáp ứng các điều kiện quy định trong Nghị định số 86/2018/NĐ-CP (sửa đổi bởi Nghị định 124/2024/NĐ-CP) như đã nêu (đầu tư tối thiểu, cơ sở vật chất, chương trình, đội ngũ, v.v.). Thủ tục cụ thể gồm: xin cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư tại cơ quan đăng ký đầu tư (nêu rõ dự án thành lập trường); sau khi có đầu tư chứng nhận, nộp hồ sơ đề nghị cho phép thành lập trường (Đề án thành lập, phương án tài chính, cơ sở vật chất…), nếu được cấp phép mới tiếp tục xin giấy phép hoạt động giáo dục chính thức. Trong quá trình triển khai, trường phải tuân thủ quy định về tài chính – kế toán, báo cáo hàng năm cho cơ quan quản lý, và chịu thanh tra về chất lượng giáo dục giống như các trường khác.
Một lưu ý quan trọng là Việt Nam khuyến khích hợp tác quốc tế trong giáo dục, nên các quy định mới của Nghị định số 86/2018/NĐ-CP (sửa đổi bởi Nghị định 124/2024/NĐ-CP) đã đơn giản hóa một số thủ tục (ví dụ đưa ra lộ trình tiến độ đầu tư, tạo điều kiện khai hồ sơ trực tuyến) nhằm thu hút nhà đầu tư quốc tế. Do đó, về nguyên tắc, nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư thành lập trường phổ thông tư thục 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh với đối tác Việt Nam, miễn đáp ứng đủ các điều kiện nói trên. Tuy nhiên, các quy định về việc giữ vững an ninh quốc phòng, bản sắc văn hóa và giáo dục truyền thống của Việt Nam được đặt lên hàng đầu, nên chương trình dạy học, tên trường và các quy chế phải đảm bảo không gây hiểu nhầm và phù hợp thuần phong mỹ tục.
Tóm lại, các quy định pháp luật về giáo dục phổ thông (mầm non đến THPT) của Việt Nam hiện nay tạo ra một khuôn khổ chung để quản lý mọi trường học, nhưng vẫn có những điểm khác biệt quan trọng giữa trường công lập, trường tư thục trong nước và trường có vốn đầu tư nước ngoài. Trường công lập được Nhà nước trực tiếp đầu tư và quản lý (quyết định thành lập, ngân sách, đội ngũ giảng dạy), trong khi trường tư thục do các nhà đầu tư (trong nước hoặc nước ngoài) đề xuất thành lập và tự chịu trách nhiệm về vốn, tổ chức. Cả hai nhóm trường tư thục đều phải tuân thủ Điều 49 Luật Giáo dục về điều kiện cơ bản (cơ sở vật chất, chương trình, giáo viên, tài chính), nhưng trường có vốn nước ngoài còn phải thực hiện thêm các điều kiện theo Luật Đầu tư và Nghị định số 86/2018/NĐ-CP (sửa đổi bởi Nghị định 124/2024/NĐ-CP) như quy định về trình tự đầu tư, mức đầu tư tối thiểu, chế tài đặt tên trường, thời hạn hoạt động…. Mỗi loại hình trường đều phục vụ mục tiêu chung của giáo dục phổ thông Việt Nam, song cơ chế tổ chức, nguồn lực và đối tượng quản lý pháp lý lại có sự phân biệt rõ ràng theo quy định pháp luật.
Thông tin có trong bài viết này mang tính chất chung và chỉ nhằm mục đích cung cấp thông tin về quy định pháp luật. DB Legal sẽ không chịu trách nhiệm cho bất kỳ việc sử dụng hoặc áp dụng thông tin cho bất kỳ mục đích kinh doanh nào. Để có tư vấn pháp lý chuyên sâu, xin vui lòng liên hệ với chúng tôi.
📞: +84 357 466 579
📧: contact@dblegal.vn
🌐Facebook: DB Legal Vietnamese Fanpage or DB Legal English Fanpage
Bài viết liên quan:
- Chính sách ưu đãi đầu tư trong Khu thương mại tự do Đà Nẵng
- Hướng Dẫn Pháp Lý: Đầu Tư Dịch Vụ Điện Toán Đám Mây Cho Nhà Đầu Tư Nước Ngoài
- Hướng dẫn đầu tư và thành lập Trung tâm dữ liệu tại Việt Nam cho nhà đầu tư nước ngoài
- ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO LĨNH VỰC CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
- Chi tiết 7 Vị trí và Quy hoạch Khu Thương mại tự do Đà Nẵng
- Quy định về mở và sử dụng tài khoản bằng đồng Việt Nam để thực hiện hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài
- Quy định mới về chủ sở hữu hưởng lợi theo quy định Luật Doanh Nghiệp sửa đổi bổ sung (tiếp theo)
- Quy định mới về chủ sở hữu hưởng lợi theo quy định Luật Doanh Nghiệp sửa đổi bổ sung
- Các Loại Giấy Phép Kinh Doanh Rượu/Đồ Uống Có Cồn tại Việt Nam
- Quy định của Hiệp định WTO Về Đầu Tư