Banner

Tổng hợp 10 bản án hôn nhân gia đình có tranh chấp về tài sản, nuôi con mà vợ chồng sống chung không đăng ký kết hôn

Thống kê 10 bản án hôn nhân gia đình có tranh chấp về tài sản, nuôi con mà vợ chồng sống chung không đăng ký kết hôn

Mục lục:

1. Bản án số 10/2021/HNGĐ-ST về tranh chấp nuôi con của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.

* Tóm tắt nội dung bản án:

Theo đơn khởi kiện đề ngày 30 tháng 6 năm 2021 và bản tự khai tại Tòa án, nguyên đơn anh Lồ Diu S (tên gọi khác: Séng) trình bày: anh và chị Quàng Thị T về chung sống với nhau năm 2013 nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, mà chỉ cưới hỏi theo phong tục tập quán tại địa phương. Hôn nhân của anh chị là tự nguyện, có tìm hiểu, không do bên nào ép buộc. Thời gian đầu chung sống hòa thuận, hạnh phúc, đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp nhau. Vợ chồng anh chị đã sống ly thân từ tháng 02 năm 2021 không ai quan tâm đến ai. Mâu thuẫn của hai vợ chồng đã được hai bên gia đình nội, ngoại khuyên bảo động viên, nhưng tình cảm vợ chồng không hàn gắn được. Nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên làm đơn khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai giải quyết cho anh được ly hôn với chị Quàng Thị T.

Về con: Quá trình chung sống anh chị có 01 con chung là cháu Lồ Si V , sinh ngày 27/11/2013, khi ly hôn anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Vân đến khi trưởng thành, không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và công nợ: Anh và chị T không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tòa án sơ thẩm nhận định:

Về hôn nhân: Anh Lồ Diu S (Séng) và chị Quàng Thị T chung sống với nhau từ năm 2013 nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình nên hôn nhân của anh chị không có giá trị pháp lý. Nay anh Lồ Diu S có yêu cầu ly hôn, Tòa án nhân dân huyện Mường Khương thụ lý giải quyết theo quy định tại Khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình, tuyên bố không không nhận quan hệ vợ chồng giữa anh Lồ Diu S và chị Quàng Thị T.

Về con chung: Anh Lồ Diu S và chị Quàng Thị T đều thừa nhận anh chị có 01 con chung là cháu Lồ Si V, sinh ngày 27/11/2013. Tại phiên hòa giải về nuôi con chung, anh S và chị T thỏa thuận để chị T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Vân đến khi trưởng thành, anh S không phải cấp dưỡng nuôi con. Tại đơn xin xét xử vắng mặt, anh S và chị T vẫn giữ nguyên quan điểm về nuôi con chung.

Hội đồng xét xử xét thấy: Sau khi anh S và chị T chung sống với nhau một thời gian thì anh S đi chấp hành án đến năm 2020 mới trở về địa phương, chị T sinh và nuôi dưỡng cháu V trong suốt thời gian anh S đi chấp hành án. Tại văn bản ghi ý kiến cháu Lồ Si V, cháu cũng có nguyện vọng được ở với mẹ. Do đó, thỏa thuận về nuôi con chung của anh Lồ Diu S và chị Quàng Thị T là phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận của anh Lồ Diu S và chị Quàng Thị T về nuôi con chung như sau: Giao cháu Lồ Si V, sinh ngày 27/11/2013 cho chị Quàng Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu Lồ Si V đủ 18 tuổi, anh Lồ Diu S không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Anh Lồ Diu S và chị Quàng Thị T đều không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

* Tòa án sơ thẩm quyết định:

Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh Lồ Diu S (tên gọi khác: Séng) và chị Quàng Thị T 2/Về con chung: Công nhận sự thỏa thuận của anh Lồ Diu S (tên gọi khác: Séng) và chị Quàng Thị T về nuôi con chung như sau: Giao cháu Lồ Si V, sinh ngày 27/11/2013 cho chị Quàng Thị T trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục đến khi cháu đủ 18 tuổi, anh Lồ Diu S không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

2. Bản án số 20/2022/HNGĐ-ST về tranh chấp nuôi con của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.

* Tóm tắt nội dung bản án:

Năm 2016, chị Cao Thị N và anh Vũ Trung D chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới theo phong tục tập quán nhưng do không hiểu biết pháp luật nên không làm thủ tục đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống anh chị hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, lối sống, tính cách không hợp. Gia đình hai bên đã nhiều lần hòa giải nhưng không có kết quả mà mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Đến nay anh chị đã sống riêng, không còn quan hệ về tình cảm và kinh tế. Nay xác định tình cảm không còn, cuộc sống chung không có hạnh phúc nên chị N đề nghị Toà án giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị và anh D.

Về con chung: Chị Cao Thị N và anh Vũ Trung D có một con chung là Vũ Minh T, sinh ngày 05/7/2016. Chị N và anh D thỏa thuận giao con Vũ Minh T cho anh D trực tiếp nuôi. Việc cấp dưỡng nuôi con anh chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Cao Thị N và anh Vũ Trung D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tòa án sơ thẩm nhận định:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Cao Thị N và anh Vũ Trung D chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2016 trên cơ sở tự nguyện nhưng không làm thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định thì không có giá trị pháp lý”. Vì vậy, quan hệ giữa chị N và anh D không được pháp luật công nhận là vợ chồng.

Quá trình chung sống, chị N và anh D đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do hai bên bất đồng quan điểm lối sống, không có sự thông cảm, chia sẻ với nhau. Đến nay chị N và anh D đã không sống cùng với nhau, không còn quan hệ về tình cảm và kinh tế. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không công nhận chị Cao Thị N và anh Vũ Trung D là vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Lụật Hôn nhân và gia đình.

Về việc nuôi con: Chị Cao Thị N và anh Vũ Trung D có một con chung là Vũ Minh T, sinh ngày 05/7/2016. Quá trình giải quyết vụ án, anh D và chị N thỏa thuận giao con Vũ Minh T cho anh D trực tiếp nuôi. Việc cấp dưỡng nuôi con anh chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Xét thỏa thuận của chị N và anh D là tự nguyện nên cần chấp nhận.

Về việc chia tài sản: Chị Cao Thị N và anh Vũ Trung D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

* Tòa án sơ thẩm quyết định:

Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Cao Thị N và anh Vũ Trung D.

Về việc nuôi con: Giao con Vũ Minh T, sinh ngày 05/7/2016 cho anh Vũ Trung D trực tiếp nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị Cao Thị N và anh Vũ Trung D tự thỏa thuận nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về việc chia tài sản: Chị Cao Thị N và anh Vũ Trung D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

3. Bản án số 07/2020/HNGĐ-ST về tranh chấp nuôi con của nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn.

* Tóm tắt nội dung bản án:

Chị N và anh Lò Văn S được hai bên gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán vào năm 2009, không có đăng ký kết hôn, lấy nhau trên cơ sở tự nguyện. Thời gian đầu vợ chồng sống rất hạnh phúc đến cuối năm 2017 bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do tính cách không hợp, thường xuyên cãi vã nhau, không hòa hợp và bất đồng quan điểm, đã ly thân từ tháng 02 năm 2020. Nhận thấy không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa, nên chị Ngân làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Si.

Về con chung: Chị Lò Thị N và anh Lò Văn S có 02 con chung là Lò Thị H, sinh ngày 08/10/2011 và Lò Văn D, sinh ngày 15/3/2015, hiện hai con chung đang sống cùng chị N tại nhà của chị N và em gái chị N ở thị trấn T, huyện T, tỉnh Lai Châu. Từ nhỏ chị là người nuôi dưỡng chăm sóc các con còn anh S thường xuyên say rượu, đánh đập vợ con, không quan tâm, chăm sóc con. Nay ly hôn chị N có nguyện vọng được nuôi hai con chung là Lò Thị H và Lò Văn D cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi) và có khả năng lao động, không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện tại chị N đi làm, thu nhập 7.000.000đồng/tháng.

Về chia tài sản: tài sản chung, nợ chung, cho vay chung: Chị Lò Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tòa sơ thẩm nhận định:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Lò Thị N và anh Lò Văn S có tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán từ năm 2009, không có đăng ký kết hôn, do vậy Hội đồng xét xử xác định hôn nhân giữa chị Lò Thị N và anh Lò Văn S là hôn nhân không hợp pháp. Sau khi tổ chức đám cưới, Chị N và anh S chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, do hai vợ chồng thường xuyên cãi nhau dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng và đã ly thân từ tháng 02 năm 2020.

Nay chị Lò Thị N xác định tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chị N có quyền đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lò Văn S. Quá trình giải quyết vụ án, xác định được mâu thuẫn của vợ chồng chị N, anh S đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Quan hệ hôn nhân giữa chị N, anh S là quan hệ hôn nhân không hợp pháp, do vậy Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ngân, căn cứ vào Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội, Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình để tuyên bố chị N, anh S không phải là vợ chồng.

Việc nuôi con: Chị Lò Thị N và anh Lò Văn S có 02 con chung là Lò Thị H, sinh ngày 08/10/2011 và Lò Văn D, sinh ngày 15/3/2015. Chị N có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc hai con chung cho đến khi các cháu thành niên (đủ 18 tuổi) và có khả năng lao động. Chị N không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Lò Văn S có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc Lò Văn D cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi) và có khả năng lao động, để cho chị N được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc Lò Thị H cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi) và có khả năng lao động, không yêu cầu chị N phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét nguyện vọng của con chung và điều kiện chăm sóc con chung của chị N, anh S: Xét thấy, anh S không có thu nhập ổn định, chị N chứng minh được thu nhập của mình là 7.000.000 đồng/tháng. Cháu Lò Thị H là con gái và nguyện vọng của cháu là được ở cùng với mẹ, cháu Lò Văn D hiện còn nhỏ cần sự chăm sóc của người mẹ, hơn nữa từ nhỏ các con chung của anh chị đều do chị N chăm sóc. Tại biên bản xác minh, chính quyền địa phương xã N đề nghị Tòa án giao hai con chung cho chị N chăm sóc, nuôi dưỡng. Để các con chung của chị N, anh S có điều kiện phát triển bình thường, trên cơ sở nguyện vọng của con chung, Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của chị N, giao con chung là Lò Thị H, sinh ngày 08/10/2011 và Lò Văn D, sinh ngày 15/3/2015 cho chị Lò Thị N chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành là phù hợp. Chị N không đề nghị anh S cấp dưỡng nôi con chung nên không xem xét.

Về chia tài sản: Tài sản chung, nợ chung, cho vay chung: Nguyên đơn và bị đơn đều không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

* Tòa sơ thẩm quyết định:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lò Thị N.

2. Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố chị Lò Thị N và anh Lò Văn S không phải là vợ chồng.

3. Việc nuôi con: Giao con chung là Lò Thị H, sinh ngày 08/10/2011 và Lò Văn D, sinh năm 15/3/2015 cho chị Lò Thị N chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi các cháu thành niên (đủ 18 tuổi) và có khả năng lao động. Anh Lò Văn S không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Lò Văn S có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

4. Về chia tài sản: tài sản chung, nợ chung, cho vay chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

4. Bản án về tranh chấp nuôi con chung của nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn 13/2019/HNGĐ-ST.

* Tóm tắt nội dung bản án:

Bà N và ông Q tự nguyện tìm hiểu và chung sống từ khoảng tháng 4 năm 1997, nhưng do không hiểu biết pháp luật nên không đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống bà và ông Q thường xuyên xảy ra mâu thuẫn gia đình. Nguyên nhân do ông Q có tính gia trưởng, tự quyết định tất cả các công việc, tiền bạc trong gia đình, không tôn trọng ý kiến của bà; Ngoài ra, ông Q không quan tâm đến đời sống mà còn thường xuyên chửi bới, đánh đập, xúc phạm bà và các con, đuổi con trai ra khỏi nhà; Từ tháng 8/2018 bà và ông Q sống ly thân đến nay. Nay mâu thuẫn đã trầm trọng, không thể hàn gắn tình cảm, không thể tiếp tục chung sống nên yêu cầu Tòa án tuyên bố quan hệ giữa bà và ông Q không phải là quan hệ vợ chồng để giải phóng cho bà và các con.

Về con chung, bà và ông Q có 03 con chung là Nguyễn Văn Th, sinh năm 1998; Nguyễn Văn L, sinh năm 1999 và Phạm Thị Tuyết Nh, sinh ngày 20/3/2007. Bà có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục 02 con chung là Phạm Thị Tuyết Nh và Nguyễn Văn Th do cháu Th đã thành niên nhưng hạn chế về nhận thức do khi còn nhỏ cháu bị bệnh não để lại di chứng. Đối với cháu L đã thành niên có tinh thần, thể chất bình thường nên không yêu cầu Tòa án giải Q nghĩa vụ nuôi dưỡng và cấp dưỡng.

Về tài sản, đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án chia tài sản chung của bà và ông Q gồm một thửa đất rẫy diện tích 6.713m2, một thửa đất rẫy diện tích 19.652,8m2 và một thửa đất 742m2 tại thôn 1, xã Đ, huyện B, tỉnh B đều đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, sau khi tòa án xem xét, thẩm định bà và ông Q đã tự thỏa thuận được với nhau về phân chia tài sản chung nên hiện nay bà không yêu cầu Tòa án giải Q nữa. Bà và ông Q không nợ ai, không cho ai nợ nên không yêu cầu Tòa án giải Q.

* Tòa sơ thẩm nhận định:

Về quan hệ tình cảm: Bà N và ông Q tự nguyện tìm hiểu và chung sống với nhau như vợ chồng từ tháng 4 năm 1997, nhưng không đăng ký kết hôn nên không được pháp luật công nhận là quan hệ vợ chồng.

Qúa trình chung sống hai bên phát sinh mâu thuẫn, đến năm 2018 thì mâu thuẫn trầm trọng nên tháng 7/2018 bà N sống ly thân với ông Q, nguyên nhân mâu thuẫn là do ông Q hay uống rượu chửi bới vợ con, không quan tâm đến việc học hành của con. Do không thể tiếp tục chung sống với ông Q nên bà N yêu cầu Tòa án giải quyết tuyên bố quan hệ giữa bà và ông Q không phải quan hệ vợ chồng, giải quyết người trực tiếp nuôi con chung. Ông Q không đồng ý chấm dứt quan hệ tình cảm với bà N nhưng không được bà N đồng ý nên không có cơ sở chấp nhận; Mặt khác, lỗi dẫn đến muâu thuẫn gia đình là do ông Q gây ra do ông hay uống rượu chửi bới vợ con, nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N tuyên bố quan hệ giữa bà N và ông Q không phải là quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình là phù hợp.

Về con chung: Ông Q và bà N có 03 con chung là Nguyễn Văn Th, sinh năm 1998; Nguyễn Văn L, sinh  năm 1999 và Phạm Thị Tuyết Nh, sinh ngày 20/3/2007. Tại phiên tòa bà N giữ nguyên yêu cầu được nuôi hai con chung là anh Th và cháu Nh đề nghị ông Q cấp dưỡng cho bà nuôi anh Th mỗi tháng 1.000.000đ. Ông Q có nguyện vọng nuôi anh Th còn cháu Nh có nguyện vọng ở với ai thì người đó nuôi; Cháu Nh có nguyện vọng ở với mẹ; Anh Th đã thành niên nhưng có nhược điểm về tinh thần nên Tòa án không ghi được lời khai. Anh Th đã đủ 18 tuổi nhưng bị bệnh không có khả năng lao động, không có tài sản để nuôi sống mình mà chỉ được hưởng trợ cấp theo diện người khuyết tật mỗi tháng 400.000đ, nên cha mẹ vẫn phải có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc. Về điều kiện kinh tế ông Q và bà N có tài sản chung gồm 03 thửa đất rẫy và làm nhà ở tổng diện tích là 27.108,3m2, hiện nay hai bên đã thỏa thuận chia đôi để quản lý, sử dụng; hai người ở trong hai căn nhà trên hai thửa đất khác nhau. Như vậy, điều kiện kinh tế, nơi ở của ông Q bà N là ngang nhau; Hiện bà N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nh, ông Q trực tiếp nuôi dưỡng anh Th kể T khi hai người ly thân đến nay. Bà N cho rằng ông Q không chăm sóc mà thường hay đánh đập anh Th nhưng không có chứng cứ chứng minh, nên cần giao cháu Nh cho bà N tiếp tục nuôi đưỡng, chăm sóc, giáo dục; giao anh Th cho ông Q tiếp tục nuôi đưỡng, chăm sóc, giáo dục là phù hợp. Về cấp dưỡng nuôi con, do mỗi người nuôi một con nên không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai.

Về tài sản: Bà N kiện yêu cầu Tòa án chia tài sản chung của bà và ông Q gồm một thửa đất rẫy diện tích 6.713m2, một thửa đất rẫy diện tích 19.652,8m2 và một thửa đất 742m2 tại thôn 1, xã Đ, huyện B, tỉnh B đều đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 26/02/2019 bà N có đơn xin rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện về chia tài sản chung nói trên đối với ông Q; việc rút yêu cầu của bà N là tự nguyện, ông Q không có ý kiến, không có yêu cầu phản tố đối với bà N nên cần đình chỉ yêu cầu khởi kiện về tài sản của bà N đối với ông Q.

Về nợ chung: Bà N và ông Q không có, không yêu cầu giải Q nên không xem xét.

* Tòa sơ thẩm quyết định:

Về quan hệ tình cảm: Tuyên bố quan hệ giữa bà Phạm Thị N với ông Nguyễn Văn Q không phải là quan hệ vợ chồng.

Về con chung: Giao cho ông Nguyễn Văn Q có nghĩa vụ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Nguyễn Văn Th, sinh năm 1998; Giao cho bà Phạm Thị N có nghĩa vụ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Phạm Thị Tuyết Nh, sinh ngày 20/3/2007. Không đặt ra nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Đình chỉ yêu cầu khởi kiện chia tài sản chung của bà Phạm Thị N đối với ông Nguyễn Văn Q về 03 thửa đất tại thôn 1, xã Đ, huyện B, tỉnh B gồm: Thửa đất rẫy diện tích 6.713,5m2 giấy CNQSD đất số BH 312019 vào sổ cấp số CH 00879 ngày 07/8/2012 do UBND huyện B cấp cho hộ ông Nguyễn Văn Q; thửa đất rẫy diện tích 19.652,8m2 giấy CNQSD đất số BH 265175 vào sổ cấp số CH 00135 ngày 2/7/2010 do UBND huyện B cấp cho hộ ông Nguyễn Văn Q và thửa đất 742m2 giấy CNQSD đất số BH 960792 vào sổ cấp số CH 00742 ngày 21/9/2015.

5. Bản án về tranh chấp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn số 14/2022/HNGĐ-ST.

* Tóm tắt nội dung bản án:

Do quen biết trước và qua thời gian tìm hiểu nên ông Sơn R và bà Thạch Thị Sa V tiến tới hôn nhân trên tinh thần tự nguyện nhưng không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Chúng tôi về chung sống với nhau ở ấp Giồng C, xã L, vợ chồng chung sống với nhau rất hạnh phúc, luôn quan tâm chăm sóc lẫn nhau đến năm 2016 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp, vợ chồng thường cải nhau do bất hòa trong cuộc sống, chúng tôi vì muốn gìn giữ hạnh phúc gia đình nên cố gắng nhường nhịn nhau để có cuộc sống êm ấm nhưng không có kết quả, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung. Từ đó, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên bà Sa V về nhà cha mẹ ruột ở và vợ chồng sống ly thân từ tháng 4 năm 2016 cho đến nay, từ ly thân hai bên có tạo điều kiện hàn gắn vẫn không có kết quả. Đến nay nhận thấy giữa vợ chồng ly thân đã lâu, không thể hàn gắn được, tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông R yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với bà Sa V.

Về con chung: Tên Sơn T, sinh năm 2005, ông R yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng và không yêu cầu bà Sa V phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tòa sơ thẩm nhận định:

Về quan hệ hôn nhân: Ông Sơn R và bà Thạch Thị Sa V tự nguyện xác lập quan hệ hôn nhân với nhau vào năm 2004 nhưng không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Cuộc sống chung của vợ chồng thời gian đầu rất hạnh phúc đến đầu năm 2016 thì giữa các bên bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, việc này cả ông R và bà Sa V đều thừa nhận nên cả ông ông R và bà Sa V đều yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận ông, bà là vợ chồng. Căn cứ khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và khoản 4 Điều 3 của Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn và có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý giải quyết và tuyên bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa họ”. Đối chiếu với trường hợp của ông R và bà Sa V sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 2004 cho đến nay mà không có đăng ký kết hôn, nay có yêu cầu ly hôn, Tòa án không công nhận ông Sơn R và bà Thạch Thị Sa V là vợ chồng.

Về con chung: có 01 người con chung tên Sơn T, sinh năm 2005. Ông R yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng và bà Sa V cũng đồng ý giao cho R nuôi con (Phù hợp với nguyện vọng của cháu T là muốn được ở cùng với cha) và ông R không yêu cầu bà Sa V phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Ông Sơn R và bà Thạch Thị Sa V xác định vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung nên không xem xét.

* Tòa sơ thẩm quyết định:

Không công nhận ông Sơn R và bà Thạch Thị Sa V là vợ chồng.

Về con chung: Giao con chung là Sơn T, sinh ngày 07/11/2005 cho ông Sơn R trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và ông R không yêu cầu bà Sa V cấp dưỡng nuôi con.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được chung sống với người trực tiếp nuôi. Bên không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được quyền ngăn cản.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có và không yêu cầu nên không xem xét

6. Bản án 20/2020/HNGĐ-ST về tranh chấp nuôi con, tài sản của nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.

* Tóm tắt nội dung bản án:

Về quan hệ tình cảm: Chị M và anh Lương Văn T tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2000, không đăng ký kết hôn tại UBND xã, thị trấn mà chỉ tổ chức lễ cưới, mời hai họ, anh em tới dự lễ cưới theo phong tục của đồng bào dân tộc tại địa phương. Thời gian đầu chung sống tình cảm vợ chồng hạnh phúc, về sau phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính cách, suy nghĩ, anh T không quan tâm, không có trách nhiệm với gia đình, sa vào các tệ nạn xã hội. Nay chị không còn tình cảm với anh T nên không muốn tiếp tục chung sống đề nghị Tòa án giải quyết tuyên bố chị và anh Lương Văn T không phải là vợ chồng.

Về con chung: Chị và anh T có 02 con chung là cháu Lương Văn T, sinh ngày 03/7/2002 và cháu Lương Văn D, sinh ngày 14/5/2005. Chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu Lương Văn D cho đến khi đủ tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi) và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung. Đối với cháu Lương Văn T nay đã đủ tuổi trưởng thành nên tùy theo nguyện vọng của cháu.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tòa sơ thẩm nhận định:

Về quan hệ tình cảm chung sống với nhau như vợ chồng: Chị M và anh T tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2000 đến nay không đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà chỉ làm lễ cưới theo phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số nên theo quy định của pháp luật về hôn nhân gia đình thì quan hệ giữa chị M và anh T không làm phát sinh quyền nghĩa vụ của vợ và chồng. Sau thời gian chung sống với nhau thì giữa hai người có phát sinh nhiều mâu thuẫn. Từ năm 2015 đến nay chị M và hai con đã về sống cùng gia đình bên ngoại. Hiện nay chị M không còn tình cảm với anh T không muốn tiếp tục duy trì cuộc sống chung. Xét thấy, việc chung sống, thời gian chung sống giữa chị M và anh T là đúng thực tế, nay có bên yêu cầu ly hôn nên căn cứ các Điều 9, 14, 15 và Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình tuyên bố chị Phan Thị M và anh Lương Văn T không phải là vợ chồng.

Về con chung: Chị Phan Thị M và anh Lương Văn T trong thời gian chung sống có 02 con chung là cháu Lương Văn T, sinh ngày 03/7/2002 và cháu Lương Văn D, sinh ngày 14/5/2005. Hiện nay cả hai cháu đều đang ở với chị M, anh T thường xuyên vắng mặt tại địa phương. Đồng thời cháu Lương Văn D có nguyện vọng được ở với chị M nên cần giao con chung cho chị M được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi đủ tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi) là phù hợp, đúng quy định, đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con. Đối với cháu Lương Văn T đã trưởng thành (đủ 18 tuổi) nên Hội đồng xét xử không xem xét. Sau ly hôn, anh T có quyền, nghĩa vụ chăm sóc, thăm nom con chung không ai được cản trở.

Đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con: Do chị M không yêu cầu nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng đối với anh T. Trường hợp chị M nuôi con không đảm bảo quyền, lợi ích của con mà anh T có căn cứ chứng minh thì có quyền làm đơn thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn. Trường hợp anh T lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị M có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh T.

Về tài sản chung và các khoản nợ chung: Chị Phan Thị M không yêu cầu Hội đồng xét xử không xem xét.

* Tòa sơ thẩm quyết định:

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị M.

Về hôn nhân: Không công nhận chị Phan Thị M và anh Lương Văn T là vợ chồng.

Về con chung: Giao con chung là cháu Lương Văn D, sinh ngày 14/5/2005 cho chị Phan Thị M được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con đủ 18 tuổi, trưởng thành. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh Lương Văn T do chị M không yêu cầu. Anh T có quyền, nghĩa vụ chăm sóc, thăm nom con chung không ai được cản trở. Trường hợp chị M là người trực tiếp nuôi con chung không đảm bảo quyền, lợi ích của con mà anh T có căn cứ chứng minh thì anh T có quyền yêu cầu Tòa án xem xét, thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Trường hợp anh T lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị M có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh T.

7. Bản án về tranh chấp nuôi con của nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn số 07/2022/HNGĐ-ST.

* Tóm tắt nội dung bản án:

Chị Lường Thị T và anh Mè Văn Th tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2006 nhưng không đi đăng ký kết hôn, hai bên có làm các thủ tục cưới hỏi theo phong tục địa phương. Sau khi cưới vợ chồng về chung sống với mẹ đẻ anh Th tại thôn P L, xã Ngh. Quá trình chung sống bình thường được đến năm 2017 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do cả hai không hòa hợp được với nhau trong lối sống cũng như việc làm ăn kinh tế nên dẫn đến nợ nần từ đó đời sống chung không có hạnh phúc. Đầu năm 2019 do không chịu được cuộc sống chung với anh Th nên chị T đã bỏ về nhà ngoại sống, tuy nhiên do có sự tác động của gia đình và thương các con nên đến cuối năm 2019 chị lại quay về chung sống nhưng cũng vẫn không thể hàn gắn được nên chị đã về hẳn nhà ngoại ở Bản Ng sinh sống từ tháng 3/2020 đến nay. Chị và anh Th có 03 con chung là Mè H, sinh ngày 29/11/2008, Mè X, sinh ngày 20/5/2010 và Mè Ng, sinh ngày 04/11/2014. Khi mâu thuẫn chị và anh Th đã thỏa thuận với sự chứng kiến của anh em trong gia đình là anh Th sẽ là người nuôi dưỡng cả ba con chung, chị sẽ cấp dưỡng nuôi các con với mức là 600.000 đồng/tháng. Các con ở với anh Th nhưng không được quan tâm chăm sóc đầy đủ, thiếu thốn, anh Th mải mê đi làm ăn nên bỏ bê các con và không cho chị đến thăm các con, khi chị đến đón con về chăm sóc thì gây khó khăn. Vì thương các con, để đảm bảo cuộc sống của các con nên chị T đề nghị Tòa án giải quyết việc nuôi dưỡng con chung giữa với anh Th theo hướng chị sẽ là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Mè H và Mè Ng, còn cháu Mè X sẽ do anh Th nuôi dưỡng. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Ngày 16/12/2021 chị T chỉ yêu cầu được nuôi cháu Th còn cháu V và Tr sẽ ở với anh Th.

* Tòa sơ thẩm nhận định:

 Về tranh chấp người trực tiếp nuôi con chung: Chị T và anh Th chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn từ năm 2006. Theo quy định của khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân gia đình thì “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng”, do vậy giữa chị T và anh Th không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Chị T và anh Th có 03 con chung là Mè H V, sinh ngày 29/11/2008, Mè X Tr, sinh ngày 20/5/2010 và Mè Ng Th, sinh ngày 04/11/2014. Kể từ tháng 5/2020 anh chị chấm dứt chung sống và tự thỏa thuận việc nuôi dưỡng con chung là do anh Th trực tiếp chăm sóc cả 03 con, chị T cấp dưỡng mức 600.000đ/tháng. Tuy nhiên chị T không cấp dưỡng đầy đủ, tháng có tháng không nhưng vẫn qua lại thăm nom con. Quá trình nuôi dưỡng con chung, do anh Th phải thường xuyên đi làm ăn xa nên các cháu ở nhà cùng với bà nội đã cao tuổi (hơn 80 tuổi), do đó các cháu chủ yếu tự sinh hoạt (thôn bản và hội phụ nữa xác nhận). Do không có bố mẹ trực tiếp chăm sóc, quan tâm hàng ngày nên các con của anh chị thiếu thốn tình cảm, các cháu thường xuyên chơi bời, lêu lổng không chú tâm vào việc học hành dẫn đến chểnh mảng, có cháu đôi khi còn bỏ học. Đặc biệt cháu Th còn nhỏ mới bắt đầu học tiểu học nên rất cần có cha mẹ trực tiếp chăm sóc, dạy dỗ, bảo ban. Chị T đã đón 01 cháu về chăm sóc nhưng sau đó anh Th đã không đồng ý.

Xét về điều kiện kinh tế, cả chị T và anh Th đều làm ruộng và làm tự do thêm những công việc không cố định nên đều có thu nhập. Chị T ở cùng gia đình bên ngoại nhưng cuộc sống ổn định, môi trường sống lành mạnh, từ trước đến nay gia đình đều chấp hành tốt quy định pháp luật và địa phương nơi cư trú. Hiện nay gia đình anh Th là hộ nghèo đặc biệt khó khăn của địa phương, mặc dù anh Th cho rằng anh đủ điều kiện đảm bảo việc nuôi dưỡng các con chung tốt hơn chị T nhưng trên thực tế thì kinh tế gia đình khó khăn, anh không chứng minh được việc mình có thu nhập cao hơn chị T. Việc anh đang phải nuôi 03 con và mẹ già yếu nên rất khó khăn. Ngoài ra anh Th không cho chị T thăm nom con là đã vi phạm quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình thì con chưa thành niên có quyền sống chung với cha mẹ, được cha mẹ thương yêu, tôn trọng, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, được học tập và giáp dục, phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức. Nguyện vọng được nuôi con chung của cả chị T và anh Th đều chính đáng phù hợp với quy định của pháp luật. Các con chung đều có nguyện vọng được ở với anh Th, nhưng ý kiến của các cháu không phải là căn cứ duy nhất để làm cơ sở giải quyết vụ án. Việc giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng phải căn cứ vào quyền lợi và nhiều mặt để đảm bảo được tốt nhất cho các con. Hội đồng xét xử thấy rằng con chung của anh chị hiện nay đều không được cha mẹ trực tiếp chăm sóc là đã không được đảm bảo các quyền theo quy định tại Điều 70 của Luật Hôn nhân và gia đình (con chưa thành niên có quyền sống chung với cha mẹ, được cha mẹ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc), tuy nhiên hai cháu V và Tr đều từ 12 đến 14 tuổi là đã tự thực hiện được những hoạt động sinh hoạt hàng ngày, tự đi học được, còn cháu Th chưa đủ 8 tuổi nên cần sự chăm sóc, chỉ bảo, dạy dỗ hàng ngày của cha mẹ hơn các anh. Do vậy cần giao cháu Th cho chị T là mẹ được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc sẽ phù hợp và tốt hơn để đảm bảo cháu được quan tâm, chăm sóc phát triển lành mạnh và cũng là phù hợp với quan điểm của đại diện cơ quan Hội phụ nữ xã là đề nghị được bảo vệ quyền lợi cho các cháu để các cháu phát triển trong môi trường an toàn và lành mạnh.

Với những nhận định đánh giá như trên Hội đồng xét xử thấy rằng việc yêu cầu được trực tiếp nuôi con của chị T là có cơ sở theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, vì vậy cần giao cháu Mè Ng Th cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giao cháu Mè H V và Mè X Tr cho anh Th trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp với quy định pháp luật cũng như đảm bảo được những quyền, lợi ích hợp pháp của các cháu.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T không đề nghị anh Th cấp dưỡng nuôi con chung, anh Th cũng không có ý kiến gì về yêu cầu cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

* Tòa sơ thẩm quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lường Thị T. Xử giao con Mè Ng Th, sinh ngày 04/11/2014 cho chị Lường Thị T, trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng. Giao con Mè H V, sinh ngày 29/11/2008 và Mè X Tr, sinh ngày 20/5/2010 cho anh Mè Văn Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Mè Văn Th và chị Lường Thị T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

8. Bản án 20/2021/HNGĐ-ST ngày 28/06/2021 về tranh chấp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.

* Tóm tắt nội dung bản án:

Về quan hệ hôn nhân: Năm 1988, ông Vũ Q B và bà Nguyễn T H chung sống với nhau như vợ chồng, không tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán. Do không hiểu biết pháp luật nên không làm thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Ông B và bà H chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 1992 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm sống, tính cách không phù hợp. Gia đình hai bên đã khuyên giải nhưng không có kết quả. Mâu thuẫn ngày càng căng thẳng nên ông B và bà H đã sống ly thân từ năm 1992, ông bà không còn liên quan về tình cảm cũng như kinh tế. Ông B đề nghị Tòa án giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng với bà H.

Về con chung: Quá trình chung sống ông B và bà H có một con chung là Vũ Quý B A, sinh ngày 12/7/1990, đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Ông B và bà H không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tòa sơ thẩm nhận định:

Về quan hệ hôn nhân: Điều kiện và quá trình kết hôn như ông B, bà H đã trình bày, ông bà chung sống với nhau như vợ chồng, không tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán. Do không hiểu biết pháp luật nên không làm thủ tục đăng ký kết hôn nên việc kết hôn giữa ông B và bà H không có giá trị pháp lý, vi phạm khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình. Trong cuộc sống chung giữa Bồn và bà H phát sinh mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm sống, tính cách không phù hợp, ông B và bà H đã sống ly thân từ năm 1992 đến nay, nên ông B đề nghị được giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng và bà H cũng đồng ý. Tòa án xét thấy việc chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn của ông bà là không có giá trị pháp lý. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông B: Không công nhận ông Vũ Q B và bà Nguyễn T H là vợ chồng theo quy định tại Điều 14, khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình.

- Về việc nuôi con: Ông B và bà H có một con chung là Vũ Quý B A, sinh ngày 12/7/1990, đã trưởng thành nên Tòa án không xem xét giải quyết.

- Về việc chia tài sản: Ông B và bà H không có tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

* Tòa sơ thẩm quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Vũ Q B.

Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận ông Vũ Q B và bà Nguyễn T H là vợ chồng.

Về việc nuôi con: Ông Vũ Q B và bà Nguyễn T H có một con chung là Vũ Quý B A, sinh ngày 12/7/1990, đã trưởng thành nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Về việc chia tài sản: Ông Vũ Q B không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

9. Bản án 13/2017/HNGĐ-ST ngày 28/06/2017 về ly hôn, chia tài sản nam, nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn

* Tóm tắt nội dung bản án:

Về hôn nhân: Chị Hà Thị N và anh Vi Văn H chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1992 đến nay không có đăng ký kết hôn tại UBND xã T. Nguyên nhân chị N và anh H mâu thuẫn là đầu năm 2016 do anh H có quan hệ ngoại tình, chị N khuyên nhủ nhưng anh H lại đánh đập, chửi bới chị. Chị N đã làm đơn ra UBND xã T để tiến hành hòa giải cho vợ chồng đoàn tụ nhưng tình cảm vợ chồng không còn. Nay chị N xin được ly hôn anh Vi Văn H.

Về con chung: Trong thời gian chung sống với nhau như vợ chồng chị Hà Thị N và anh Vi Văn H có hai người con chung là Vi Văn T, sinh ngày 02/12/1992 và Vi Thị T, sinh ngày 30/06/1996. Hiện nay các con là Vi Văn T và Vi Thị T đã đủ 18 tuổi trưởng thành các con muốn ở với ai do các con tự quyết định.

Về tài sản chung: Trong quá trình chung sống chị N và anh H có một số tài sản chung sau đây: một thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY676119 năm 2016 mang tên Vi Văn H và Hà Thị N diện tích 1229 m2. Tài sản gắn liền với đất là nhà cấp 4 ba gian và nhà ngang gắn liền với bếp, công trình giếng nước, ô tắm, bể chứa nước.

- 01 xe máy hiện nay chị N đang sử dụng biển kiểm soát 37P8.0025 giấy đăng ký xe mang tên anh Vi Văn H.

- Ti vi, tủ gỗ ép, giường, bàn ghế, bếp ga.

Một số vật dụng sinh hoạt trong gia đình có giá trị không đáng kể, chị Ngọ không yêu cầu Tòa án phân chia. Ngoài ra anh chị không còn tài sản chung gì khác.

* Tòa sơ thẩm nhận định:

Về hôn nhân: Theo lời trình bày của chị N và anh H và qua xác minh tại UBND xã T về việc đăng ký kết hôn của chị Hà Thị N và anh Vi Văn H, có căn cứ khẳng định chị Hà Thị N và anh Vi Văn H không có đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1992 đến nay. Nay chị N và anh H không còn tình cảm với nhau và xin ly hôn. Do đo, cần áp dụng Điều 14, Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Hà Thị N và anh Vi Văn H.

Về con chung: chị Hà Thị N và anh Vi Văn H trong thời gian chung sống với nhau như vợ chồng có hai con chung là Vi Văn T, sinh ngày 02/12/1992  và  Vi Thị T, sinh ngày 30/06/1996. Nay đã đủ 18 tuổi trưởng thành. HĐXX không xem xét về yêu cầu nuôi con chung.

Về tài sản chung: Trong quá trình chung sống như vợ chồng, anh Vi Văn H và chị Hà Thị N có các tài sản chung đã được định giá như sau:

- Quyền sử dụng đất thửa đất số 38 tờ bản đồ số 56 diện tích 1229m2 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY676119 ngày 01/9/2016 cho anh Vi Văn H và chị Hà Thị N. Đất ở có giá 100.000đ/m2 x 1.049m2 = 104.900.000đ (một trăm lẻ bốn triệu chín trăm nghìn đồng). Đất trồng cây hàng năm có giá 49.000đ/m2 x 180m2 = 8.820.000đ. Tổng trị giá 113.720.000đ.

- Nhà cấp 4 ba gian diện tích 51.53m2 có giá 77.000.000đ, Nhà cấp 4 hai gian diện tích 30m2 có giá 36.000.000đ. Nhà bếp giá 3.800.000đ, nhà tắm và bề bước giá 3.000.000đ. Giếng nước 1.000.000đ, xe máy biển kiểm soát 37P8 0025 giấy đăng ký xe mang tên Vi Văn H giá 2.000.000đ. Sân bê tông giá 2.200.000đ, bộ bàn ghế 1.000.000đ, ti vi giá 500.000đ, tủ gỗ ép ba buồng giá 500.000đ, giường 500.000đ, bộ bình bếp ga 1.000.000đ. Một số tài sản là vật dụng sinh hoạt trong gia đình và cây trong vườn chị N và anh H không yêu cầu phân chia vì giá trị không đáng kể nên HĐXX không xem xét.

Về chia trị giá tài sản chung: Tổng trị giá tài sản chung của chị Hà Thị N và anh Vi Văn H là 242.220.000đ. Sau khi trừ trị giá diện tích đất dùng để làm ngõ đi chung 25,3 m2  x100.000đ = 2.530.000đ. Còn lại 239.690.00đ Chị Hà Thị N và anh Vi Văn H không phải là vợ chồng, chị N và anh H có đóng góp công sức ngang nhau cho việc tạo dựng tài sản chung do đó cần áp dụng Điều 16 Luật hôn nhân gia đình, Điều 219 Bộ luật dân sự năm 2015 chia đôi tài sản chung của chị N và anh H theo giá trị, mỗi người được hưởng ½ là 119.845.000đ.

Về chia tài sản là hiện vật: Chị Hà Thị N và anh Vi Văn H đều có nguyện vọng được nhận nhà để ở. Tuy nhiên căn cứ vào hiện trạng nhà và đất của chị Ngọ và anh Hiện không thể chia cho mỗi người đều có nhà và đất. Chỉ một người được nhận nhà và người kia nhận phần đất không có nhà. Tại phiên Tòa chị Hà Thị N đồng ý cho giao anh Vi Văn H được nhận phần đất có nhà ở và có nguyện vọng được nhận xe mô tô để làm phương tiện đi lại.

- Giao cho anh Vi Văn H được quyền sử dụng phần diện đất có tứ cận phía Đông giáp phần đất của chị Hà Thị N dài 37,34 m; phía tây giáp đất nhà ông H dài  35,24 m; phía bắc giáp nhà bà T dài 9,24 m và 4,08 m; phía Nam giáp nhà bà Q dà17,02 m và 6,16 m; có diện tích là 628,9m2 trong đó có 538,9m2 đất ở và 90m2 đất trồng cây hàng năm, có trị giá quyền sử dụng đất 58.300.000 đồng. Anh H được quyền sở hữu các tài sản trên đất gồm có nhà ở cấp 4 ba gian, nhà ngang 2 gian và nhà bếp, nhà tắm và bể nước, sân phơi, ti vi, tủ gỗ ép ba buồng, 01 bộ bếp ga. Tổng trị giá tài sản anh H được nhận là 182.300.000đ.

- Giao cho chị Hà Thị N được quyền sử dụng phần đất có kích thước phía Đông giáp nhà ông T dài 28,36 m; phía Tây giáp phần đất chia cho ông H dài 35,32 m; phía Ngiáp ngõ đi chung dài 13,75 m; phía Bắc giáp nhà ông A và nhà bà T dài 1,20m, 1,82m, 14,3 m, 4,04m, 6,99m; Có diện tích 573,4m2. Trong đó có 483,4m2 đất ở và 90m2 đất vườn. Chị Ngọ được quyền sở hữu giếng nước, xe máy hiệu HONDA biển kiểm soát 37P8-0025 Giấy đăng ký xe mang tên Vi Văn H; 01 bộ bàn ghế, 01 giường. Trị giá tài sản chị Hà Thị N được nhận là 57.250.000 đồng. Chị  Nđược  sở  hữu  số  tiền  chênh  lệch  tài  sản  do  anh  Hiện  giao  lại  là 62.455.000 đồng. Phần đất được dùng làm ngõ đi chung có tứ cận phía Đông 2,02m; phía Tây giáp phần đất chia cho anh H 2,02m; phía Bắc giáp phần đất chia cho chị Ngọ 13,75m; phía Nam giáp đất bà Q dài 5,77m, 7,71m. Có diện tích 25,3m2. Chi N và anh H không phải là vợ chồng tuy nhiên khi chia tài sản cần đảm bảo quyền lợi của hai bên. Chị N không có nhà để ở do đó cần căn cứ vào điều 63 Luật HNGĐ cho phép chị N được lưu cư trong vòng 06 tháng.

* Tòa sơ thẩm quyết định:

Không công nhận chị Hà Thị N và anh Vi Văn H là vợ chồng.

- Về con chung: Có hai con chung là Vi Văn T, sinh ngày 02/12/1992 và Vi Thị T, sinh ngày 30/6/1996. Các con đã đủ tuổi trưởng thành, muốn ở với ai do các con tự quyết định. Tòa án không xem xét giải quyết.

- Về tài sản chung: Giao cho chị Hà Thị N được quyền sử dụng một phần diện tích đất thuộc thửa đất số 38 tờ bản đồ số 56 tại xóm T, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An có tứ cận: phía Đông giáp nhà ông T dài 28,36 m; phía Tây giáp phần đất chia cho ông H dài 35,32 m; phía Nam giáp ngõ đi chung dài 13,75 m; phía Bắc giáp nhà ông A và nhà bà T dài 1,20m, 1,82m,  14,3  m, 4,04m, 6,99m; Có diện tích 573,4m2. Trong đó có 483,4m2 đất ở và 90m2 đất trồng cây hàng năm. Có trị giá 52.750.000đ Chị N được quyền  sở  hữu  giếng  nước có  giá  1.000.000đ,  xe máy hiệu HONDA biển kiểm soát 37P8-0025 Giấy đăng ký xe mang tên Vi Văn H có giá  2.000.000đ; 01 bộ bàn ghế có giá 1.000.000đ, 01 giường có giá 500.000đ. Tổng trị giá tài sản là 57.250.000đ (năm mươi bảy triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng). Chị N được sở hữu số tiền chênh lệch tài sản do anh H giao lại là 62.455.000 đồng. Giao cho anh Vi Văn H được quyền sử dụng một phần diện tích đất thuộc thửa đất số 38 tờ bản đồ số 56 tại xóm T, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An có tứ cận phía Đông giáp phần đất của chị Hà Thị N dài 37,34 m; phía Tây giáp đất nhà ông H dài 35,24 m; phía Bắc giáp nhà bà T dài 9,24 m và 4,08 m; phía Nam giáp nhà bà Q dài 17,02 m và 6,16 m; có diện tích là 628,9m2 trong đó có 538,9m2 đất ở và 90m2 đất trồng cây hàng năm, có trị giá quyền sử dụng đất 58.300.000 đồng. Anh H được quyền sở hữu các tài sản trên đất gồm có nhà ở cấp 4 ba gian, nhà ngang 2 gian và nhà bếp, nhà tắm và bể nước, sân phơi, ti vi, tủ gỗ ép ba buồng, 01 bộ bình bếp ga. Tổng trị giá tài sản anh H được nhận là 182.300.000 đồng. Anh  H  phải  giao  lại  cho chị  Hà  Thị  N số  tiền chênh lệch  tài  sản  là 62.455.000đ và 1.000.000đ tiền chi phí định giá tài sản. Phần đất được dùng làm ngõ đi chung có tứ cận phía Đông 2,02m; phía Tây giáp phần đất chia cho anh H 2,02m; phía Bắc giáp phần đất chia cho chị N 13,75m; phía Nam giáp đất bà Q dài 5,77m, 7,71m. Có diện tích 25,3m2.

10. Bản án 02/2018/HNGĐ-ST ngày 09/01/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.

* Tóm tắt nội dung bản án:

Chị và anh Nguyễn Văn N tự nguyện chung sống với nhau vào năm 1993, hôn nhân tự nguyện, không có đăng ký kết hôn, có tổ chức lễ cưới. Trong ngày cưới, hai bên gia đình có cho vợ chồng 01 đôi bông 01 chỉ vàng 24k, 01 sợi dây chuyền 1,5 chỉ vàng 18k. Vợ chồng đã bán toàn bộ nữ trang ngày cưới để lấy vốn làm ăn.

Vợ chồng chung sống không hạnh phúc, đã ly thân từ năm 2015 cho đến nay. Vợ chồng không thể sống chung được nữa do tình cảm vợ chồng không còn, nên chị yêu cầu ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung. Cháu Nguyễn Thị Anh T, sinh năm 1997, đã thành niên nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị L yêu cầu được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Nguyễn Thị Lan A, sinh ngày 28-9-2000. Chị không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng không yêu cầu nên không giải quyết.

* Tòa sơ thẩm nhận định:

Chị L và anh N chung sống với nhau vào năm 1993, có tổ chức lễ cưới, hôn nhân tự nguyện, mặc dù có đủ điều kiện kết hôn nhưng anh chị không đăng ký kết hôn là vi phạm khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Nay chị L yêu cầu ly hôn, anh N đồng ý hay không đồng ý ly hôn thì Toà án cũng không xem xét mâu thuẫn của anh chị để chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu ly hôn. Trường hợp của anh chị chỉ áp dụng khoản 1 Điều 14, Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về con chung: Anh chị thống nhất để chị L tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Nguyễn Thị Lan A, sinh ngày 28-9-2000. Nguyễn Văn N không cấp dưỡng nuôi con. Điều này cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu Lan A nên cần ghi nhận. Riêng cháu Nguyễn Thị Anh T, sinh ngày 25-4-1997 đã thành niên và có khả năng lao động, anh chị không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh chị không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

* Tòa sơ thẩm quyết định:

Không công nhận chị Nguyễn Mộng L và anh Nguyễn Văn N là vợ chồng. Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự như sau: Về con chung: Chị Nguyễn Mộng L có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Nguyễn Thị Lan A, sinh ngày 28-9-2000. Anh Nguyễn Văn N không cấp dưỡng nuôi con. Anh Nguyễn Văn N có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Riêng cháu Nguyễn Thị Anh T, sinh ngày 25-4-1997 đã thành niên và có khả năng lao động, anh chị không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết. Về tài sản chung và nợ chung: Anh chị không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

Trên đây là danh sách 10 bản án hôn nhân gia đình có tranh chấp về tài sản, nuôi con mà vợ chồng sống chung không đăng ký kết hôn. Nhằm mang lại dịch vụ pháp lý tốt nhất cho khách hàng, mọi thắc mắc cần giải đáp thêm khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi theo thông tin phía dưới.

                Công ty Luật TNHH MTV DB (DB Legal) là Công ty Luật Việt Nam cung cấp các dịch vụ pháp lý uy tín, chuyên nghiệp. Với đội ngũ nhân sự trách nhiệm, có chuyên môn cao, DB Legal là đối tác tin cậy cho khách hàng cá nhân và doanh nghiệp trong các vấn đề pháp lý tại Việt Nam.

 

Để biết thêm thông tin chi tiết vui lòng liên hệ với chúng tôi

Local Office Numbers:
Hotline/Zalo/Whatsapp: +84 357 466 579
Email: contact@dblegal.vn

Liên hệ

Địa chỉ 1: Tầng 3, Tòa nhà Indochina Riverside Tower, 74 Bạch Đằng, Quận Hải Châu, Thành phố Đà Nẵng, Việt Nam

Địa chỉ 2: 28 Thanh Lương 20, Phường Hòa Xuân, Quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng

Hotline 1: (+84) 357 466 579

Hotline 2: (+84) 985 271 242

Điện thoại: (+84) 236.366.4674

Email: contact@dblegal.vn

zalo
facebook