Banner

Tổng hợp các bản án tranh chấp về Hợp đồng mua bán hàng hoá mà đương sự ở nước ngoài

Tổng hợp các bản án về tranh chấp Hợp đồng mua bán hàng hoá mà đương sự là cá nhân/tổ chức có địa chỉ/trụ sở ở nước ngoài. Các bản án được tổng hợp với mục đích nghiên cứu, học tập. Mọi hành vi sao chép cho mục đích thương mại đều bị nghiêm cấm.

STT Bản án Toà án Tóm tắt
1 06/2024/KDTM-ST Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương Nguyên đơn (Công ty D) đã cung cấp đầy đủ chứng cứ hợp pháp chứng minh về các hợp đồng, giao dịch và số tiền Công ty N còn nợ là 18.840 USD;
Bị đơn không đến Tòa án để bảo vệ quyền lợi của mình;
Hội đồng xét xử xét thấy các chứng cứ của nguyên đơn là phù hợp với quy định pháp luật và không trái đạo đức xã hội;
Do đó, Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả số tiền 18.840 USD cùng với lãi suất chậm trả 10%/năm
2 1431/2023KDTM-ST Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh Về nội dung tranh chấp:
Có đủ cơ sở để xác định hai bên đã ký kết Hợp đồng mua bán số SUP20200711-101.
Nguyên đơn đã chứng minh việc chuyển cho bị đơn số tiền 382.847,00 USD.
Quan trọng hơn, tại Biên bản cuộc họp ngày 26/11/2020, chính người đại diện theo pháp luật của bị đơn đã thừa nhận việc nhận tiền và cam kết hoàn trả trong vòng 30 ngày nhưng không thực hiện.
Do đó, yêu cầu của nguyên đơn đòi lại số tiền gốc 382.847 USD là có cơ sở để chấp nhận.
Về yêu cầu tính lãi:
Do các bên không có thỏa thuận về mức lãi suất chậm thanh toán, yêu cầu của nguyên đơn về việc áp dụng lãi suất theo quy định tại Điều 306 Luật Thương mại 2005 là có cơ sở.
Tòa án xác định mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường là 12,25%/năm và chấp nhận yêu cầu tính lãi của nguyên đơn.
Kết luận chung: Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và nhận định này phù hợp với ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát. Bị đơn phải chịu án phí
3 1343/2023/KDTM-ST Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Hội đồng xét xử công nhận Hợp đồng mua bán số PCV30-10/HDMBKT/PCV-DD được ký kết giữa hai bên là hợp pháp, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.
Nguyên đơn (Công ty H) đã thực hiện đúng nghĩa vụ khi chuyển khoản số tiền đặt cọc là 106.463,5 USD cho bị đơn (Công ty P) vào ngày 23/11/2020.
Bị đơn đã vi phạm nghiêm trọng hợp đồng khi không giao hàng cho nguyên đơn theo đúng thời hạn thỏa thuận là ngày 07/12/2020. Hành vi không giao hàng này được xem là từ chối thực hiện hợp đồng.
Căn cứ vào khoản 2 Điều 328 Bộ luật Dân sự 2015 và Điều 6 của hợp đồng, việc nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lại số tiền đã đặt cọc là hoàn toàn có cơ sở và được chấp nhận.
4 17/2025/KDTM-PT Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh Tòa án không chấp nhận lập luận của nguyên đơn rằng bị đơn (Công ty T9) vi phạm hợp đồng do giao hàng kém chất lượng. Các bằng chứng nguyên đơn đưa ra (biên bản kiểm tra hàng hóa) bị xác định là không đáng tin cậy và có dấu hiệu được tạo dựng, bởi các lý do sau:
Công ty có nhà máy được cho là nơi kiểm hàng đã phủ nhận việc kiểm tra diễn ra tại cơ sở của họ.
Giám đốc của nguyên đơn được ghi nhận có mặt tại các buổi kiểm tra nhưng theo dữ liệu xuất nhập cảnh thì ông không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm đó.
Tổng trọng lượng hàng hóa được kiểm tra không khớp với số tiền đã thanh toán.
Tòa án chấp nhận lập luận và bằng chứng của bị đơn cho rằng Hợp đồng mua bán hàng hóa số BK002/050-150 là một giao dịch giả tạo.
Các bằng chứng (thời gian chuyển tiền trùng với thời gian thành lập công ty mới và mua nhà máy, tin nhắn trao đổi về việc tạo dựng hồ sơ hoàn tiền) đã chứng minh mục đích thật sự của việc chuyển số tiền 3,270,800 USD không phải để mua bán cá tra mà là để thực hiện một thỏa thuận khác về việc góp vốn mua lại nhà máy chế biến thủy sản. Hợp đồng mua bán chỉ được lập ra để hợp thức hóa việc chuyển tiền từ nước ngoài vào Việt Nam.
Quyết định của Tòa án
Căn cứ vào các nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định:
Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của nguyên đơn Công ty T8.,L.
Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 03/2024/KDTM-ST ngày 04/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An. Cụ thể:
Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc hủy hợp đồng mua bán.
Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn: Tuyên bố Hợp đồng mua bán số BK002/050-150 vô hiệu.
5 60/2022/KDTM-PT Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh Tòa án không chấp nhận lời trình bày của nguyên đơn (Công ty C.LTD.STI) về việc hai bên đã thỏa thuận giảm giá trị hợp đồng, vì các bằng chứng (tin nhắn WhatsApp) không rõ ràng và phía bị đơn không thừa nhận.
Tòa án bác bỏ lập luận của bị đơn rằng họ có quyền không giao hàng do nguyên đơn chậm thanh toán. Tòa án khẳng định việc bị đơn từ chối giao hàng và cho hàng quay về Việt Nam là không đúng quy định của pháp luật, bởi lẽ:
Hợp đồng đã ký không có điều khoản nào cho phép bên bán từ chối giao hàng trong trường hợp này.
Luật Thương mại 2005 cũng không quy định về việc này.
Lẽ ra, khi bên mua chậm thanh toán, bên bán chỉ có quyền yêu cầu trả tiền lãi và bồi thường thiệt hại (nếu có), chứ không có quyền từ chối giao hàng.
Do bị đơn đã nhận đủ số tiền 163.793,40 USD từ nguyên đơn nhưng không giao hàng, Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị đơn phải hoàn trả lại số tiền này là có căn cứ và đúng pháp luật.
Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định bác kháng cáo của bị đơn và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Quyết định của Tòa án (cấp Phúc thẩm)
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn xuất nhập khẩu N.
Giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2022/KDTM-ST ngày 19/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp, với các nội dung chính sau:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty C.LTD.STI: Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn xuất nhập khẩu N phải trả cho Công ty C.LTD.STI số tiền 163.793,40 USD, tương đương 3.788.705.000 đồng.
Không chấp nhận yêu cầu của Công ty C.LTD.STI về việc đòi tiền lãi chậm trả tính từ ngày 31/7/2020 đến ngày 19/4/2022.
Không chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty trách nhiệm hữu hạn xuất nhập khẩu N.
6 57/2021/KDTM-PT Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn và giữ nguyên bản án sơ thẩm dựa trên các nhận định chính sau:
Lỗi thuộc về Nguyên đơn trong việc giao nhận hàng: Tòa án xác định chính nguyên đơn là bên có lỗi trong việc giao hàng chậm đối với lô hàng 2.808 đôi giày (Đơn đặt hàng SS17) do liên tục thay đổi địa chỉ nhận hàng. Sau đó, nguyên đơn cũng vi phạm nghĩa vụ thanh toán cho lô hàng này.
Nguyên đơn thừa nhận hàng lỗi không phải do Bị đơn: Đối với lô hàng bị cho là lỗi, Tòa án trích dẫn các email trong đó nguyên đơn thừa nhận vấn đề chất lượng không phải do lỗi sản xuất của bị đơn mà do chất lượng nguyên vật liệu (lót giày) từ một nhà cung cấp khác.
Nguyên đơn tự ý khấu trừ tiền trái thỏa thuận: Nguyên đơn đã tự ý khấu trừ 23.510,32 USD chi phí vận chuyển khi thanh toán cho bị đơn, dù hai bên chưa cùng kiểm đếm và xác định chi phí theo thỏa thuận xử lý hàng lỗi.
Việc hủy giày là theo yêu cầu của Nguyên đơn: Đối với 2.015 đôi giày mà nguyên đơn đòi bồi thường do bị đơn không giao, Tòa án xác định rằng số giày này đã được bị đơn sản xuất xong nhưng nguyên đơn trì hoãn nhận hàng gần một năm. Dựa trên email và lời khai của người làm chứng (ông Nguyễn Thành Ch), Tòa án kết luận chính nguyên đơn đã yêu cầu bị đơn tiêu hủy số giày này do chất lượng giảm sút sau thời gian dài lưu kho. Do đó, yêu cầu đòi bồi thường của nguyên đơn là không có căn cứ.
Chấp nhận yêu cầu phản tố của Bị đơn: Vì các lý do trên, việc Tòa sơ thẩm chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn, buộc nguyên đơn phải thanh toán tiền lô hàng 2.808 đôi giày đã nhận và khoản tiền đã tự ý khấu trừ (tổng cộng 87.499,96 USD), là có căn cứ và đúng pháp luật.
Đơn hàng Xuân Hè 2018 (SS18) là "đơn hàng ảo": Tòa án nhận định nguyên đơn đã vi phạm hợp đồng khi liên tục trì hoãn thanh toán, thay đổi số lượng, mẫu mã và không xác nhận lịch sản xuất, khiến bị đơn không thể sản xuất. Lời khai của người làm chứng cũng xác nhận đây là "đơn hàng ảo" do nguyên đơn chưa có khách hàng. Do đó, việc bị đơn thông báo ngưng sản xuất là hợp lý.
Yêu cầu tính lãi của Nguyên đơn không được chấp nhận: Do nguyên đơn là bên có lỗi và còn nợ tiền bị đơn, yêu cầu buộc bị đơn trả lãi chậm thanh toán là không có căn cứ.
Quyết định của Tòa án (Cấp Phúc thẩm)
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Global Brand Partners PTE LTD.
Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 02/2021/KDTM-ST ngày 22/01/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương. Các quyết định chính của bản án sơ thẩm bao gồm:
Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn: Ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn về việc đồng ý trả lại cho nguyên đơn khoản tiền đặt cọc 35% cho Đơn hàng SS18 là 59.370,40 USD.
Không chấp nhận các yêu cầu khác của nguyên đơn: Bác yêu cầu đòi bồi thường 45.521,96 USD (cho 2.015 đôi giày bị hủy) và 42.921,15 USD (chi phí công cụ, vật liệu), cùng yêu cầu đòi tiền lãi.
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn: Buộc nguyên đơn phải thanh toán cho bị đơn tổng cộng 87.499,96 USD (bao gồm 63.989,64 USD tiền hàng lô 1 và 23.510,32 USD bị khấu trừ trái phép)
7 29/2021/KDTM-PT Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh Mâu thuẫn trong hồ sơ: Tòa án nhận thấy có sự mâu thuẫn lớn giữa các tài liệu. Một mặt, có Hợp đồng ủy thác nhập khẩu cho thấy Công ty Q.M.T chỉ là bên nhận ủy thác nhập khẩu lô hàng cho ông Phạm Dân H. Mặt khác, hồ sơ tại cơ quan hải quan lại thể hiện Công ty Q.M.T là bên mua hàng trực tiếp từ Công ty B qua một hợp đồng mua bán khác.
Yêu cầu giám định của Nguyên đơn: Nguyên đơn khẳng định Hợp đồng mua bán trong hồ sơ hải quan là giả mạo và đã đề nghị Tòa án cho trưng cầu giám định chữ ký, con dấu để làm rõ.
Thiếu sót của Tòa sơ thẩm: Tòa án cấp sơ thẩm đã không điều tra, làm rõ các tình tiết quan trọng như lý do có sự thay đổi bên nhận hàng trên vận đơn và mối quan hệ thực sự giữa các bên liên quan.
Kết luận: Hội đồng xét xử phúc thẩm cho rằng việc giám định là cần thiết để xác định sự thật khách quan của vụ án. Do đây là tình tiết mới phát sinh và không thể khắc phục được tại phiên tòa phúc thẩm, Tòa án đã thống nhất với ý kiến của Viện kiểm sát, quyết định hủy bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại.
8 872/2018/KDTM-ST Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh Hội đồng xét xử xác nhận có giao dịch mua bán giữa hai bên, trong đó nguyên đơn (SE Corp) đã giao hàng cho bị đơn (Công ty Cổ phần V) nhưng bị đơn chưa thanh toán đủ tiền hàng.
Căn cứ quan trọng nhất là "bảng đối chiếu công nợ" ngày 24/05/2017, trong đó chính bị đơn đã ký xác nhận còn nợ nguyên đơn số tiền 7.741,80 USD.
Do có sự thừa nhận nợ từ phía bị đơn, Tòa án xét thấy yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn phải trả số tiền hàng còn nợ là hoàn toàn có căn cứ và được chấp nhận. 
9 255/2024/KDTM-ST Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Xác nhận giao dịch: Có đủ cơ sở xác định hai bên đã ký kết Hợp đồng mua bán găng tay y tế số ASHUSH-SAM/2020/1 ngày 23/12/2020.
Xác nhận thanh toán tiền cọc: Nguyên đơn đã chuyển tiền đặt cọc 264.000 USD vào tài khoản của bị đơn. Ngân hàng TMCP S2 (SHB) cũng có văn bản xác nhận tài khoản của bị đơn đã nhận đủ số tiền 264.000 USD từ nguyên đơn vào ngày 05/01/2021.

Vi phạm của Bị đơn: Sau khi nhận tiền đặt cọc, bị đơn đã không giao hàng theo thỏa thuận và không cung cấp được bằng chứng chứng minh đã giao hàng hoặc đã hoàn trả tiền cọc.

Chấp nhận yêu cầu đòi lại tiền cọc: Yêu cầu của nguyên đơn đòi bị đơn hoàn trả tiền đặt cọc 264.000 USD là có cơ sở để chấp nhận.
Chấp nhận yêu cầu phạt vi phạm: Hợp đồng có quy định "Trong trường hợp bên Bán không giao hàng... thì bên Bán sẽ phải hoàn trả số tiền cọc cho bên Mua và chịu phạt... (tổng cộng tiền phạt không quá 3% số tiền đặt cọc)". Do đó, yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn chịu phạt 3% trên số tiền đặt cọc (tương đương 7.920 USD) là có cơ sở.
Đình chỉ yêu cầu tính lãi: Tòa án ghi nhận việc nguyên đơn tự nguyện rút yêu cầu tính lãi chậm trả đối với khoản tiền đặt cọc và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu này.
Kết luận: Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải hoàn trả tiền cọc và tiền phạt vi phạm. Nhận định này phù hợp với ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát. Bị đơn phải chịu toàn bộ án phí.
Quyết định của Tòa án
Chấp nhận yêu cầu của Ashush H Ltd.. Buộc Công ty Cổ phần S phải hoàn trả cho Ashush H Ltd. tổng cộng là 271.920 USD (tương đương 6.719.143.200 đồng), bao gồm:
Tiền đặt cọc: 264.000 USD.
Tiền phạt vi phạm: 7.920 USD.
Đình chỉ yêu cầu của Ashush H Ltd. về việc buộc Công ty Cổ phần S trả tiền lãi đối với khoản tiền đặt cọc 264.000 USD.

 

Thông tin có trong bài viết này mang tính chất chung và chỉ nhằm mục đích cung cấp thông tin về quy định pháp luật. DB Legal sẽ không chịu trách nhiệm cho bất kỳ việc sử dụng hoặc áp dụng thông tin cho bất kỳ mục đích kinh doanh nào. Để có tư vấn pháp lý chuyên sâu, xin vui lòng liên hệ với chúng tôi.

For more information: 

📞: +84 357 466 579

📧: contact@dblegal.vn

🌐Facebook:  DB Legal Vietnamese Fanpage or DB Legal English Fanpage 

🐦X(Twitter)

💼Linkedin

🎬Youtube

 

Liên hệ

Địa chỉ 1: Tầng 3, Tòa nhà Indochina Riverside Tower, 74 Bạch Đằng, Quận Hải Châu, Thành phố Đà Nẵng, Việt Nam

Địa chỉ 2: 28 Thanh Lương 20, Phường Hòa Xuân, Quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng

Hotline 1: (+84) 357 466 579

Hotline 2: (+84) 985 271 242

Điện thoại: (+84) 236.366.4674

Email: contact@dblegal.vn

zalo
facebook