Tổng hợp 10 bản án hôn nhân gia đình có tranh chấp xác định cha mẹ cho con hoặc con cho cha mẹ
Thống kê 10 bản án hôn nhân gia đình có tranh chấp xác định cha mẹ cho con hoặc con cho cha mẹ
Mục lục:
- 1. Bản án số 155/2019/HNGĐ-ST ngày 18/11/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
- 2. Bản án số 1007/2019/HNGĐ-ST ngày 14/10/2019 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.
- 3. Bản án số 36/2019/HNGĐ-ST ngày 01/10/2019 của Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng.
- 4. Bản án số 22/2019/HNGĐ-ST ngày 09/09/2019 của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
- 5. Bản án số 36/2018/HNGĐ-PT ngày 08/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh.
- 6. Bản án số 556/2018/HNGĐ-ST ngày 18/06/2018 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.
- 7. Bản án số 70/2017/HNST ngày 19/10/2017 của Tòa án nhân dân huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước.
- 8. Bản án số 193/2017/HNGĐ-ST ngày 13/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
- 9. Bản án số 65/2017/HNGĐ-ST ngày 9/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Bến Lức – Tỉnh Long An.
- 10. Bản án số 26/2017/HNGĐ-ST ngày 02/08/2017 của Tòa án nhân dân quận Kiến An, thành phố Hải Phòng.
1. Bản án số 155/2019/HNGĐ-ST ngày 18/11/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
* Nội dung bản án:
Chị L và anh O là vợ chồng, do mẫu thuẫn nên năm 2007 ly hôn. Tại thời điểm ly hôn chị L và anh O đã có 01 người con là H3 sinh năm 1994. Sau khi ly hôn thì chị L và anh O vẫn sống chung với nhau. Đến năm 2011 thì chị L sinh cháu T1. Thời gian đầu sau khi sinh thì anh O có ghé và mua sữa cho cháu. Tuy nhiên, sau đầu năm 2019 anh O và gia đình nói cháu T1 không phải là con của anh O, nói cha cháu T1 đã chết. Nay chị L yêu cầu tòa án xác định anh O là cha của cháu T1 đồng thời yêu cầu giám định cháu T1 và H3 có quan hệ huyết thống dòng cha.
* Tòa sơ thẩm nhận định:
Tại thời điểm ly hôn giữa chị L và anh O có 01 người con chung là cháu H3. Sau khi ly hôn vẫn chung sống qua lại với nhau, đến năm 2011 chị L sinh cháu T1. Anh O không có ý kiến cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì đối với yêu cầu khởi kiện của chị L. Chị L yêu cầu trưng cầu giám định cháu T1 và cháu H3 là con chung của chị L và anh O. Theo bản kết luận giám định “Nguyễn Minh T và Nguyễn Minh H có quan hệ huyến thống theo dòng cha”.
* Tòa sơ thẩm tuyên:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thanh L đối với anh Nguyễn Xuân O về việc tranh chấp về xác định cha cho con.
2. Bản án số 1007/2019/HNGĐ-ST ngày 14/10/2019 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.
* Nội dung bản án:
Bà A là mẹ của cháu Nguyễn Thy T – sinh ngày 14/06/2011. Khi làm giấy khai sinh cho con do muốn trên giấy có tên cha và mẹ nên bà nhờ ông Nguyễn Hanh P khai nhận là cha của cháu T. Ngày 13/7/2011, UBND Phường M, quận B đã cấp Giấy khai sinh số: 02/2011 có nội dung bà A là mẹ, ông P là cha của cháu T. Ông P không phải là cha của cháu T, để tránh ảnh hưởng và phát sinh quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của ông P đối với cháu T. Nay bà A yêu cầu Tòa án xác định ông P không phải là cha của cháu T.
* Tòa sơ thẩm nhận định:
Theo thừa nhận của đôi bên đương sự trong quá trình giải quyết vụ án thì ông P không phải là cha của cháu T. Căn cứ Kết quả xét nghiệm ADN huyết thống “ông Nguyễn Hạnh P không phải là cha đẻ của cháu Nguyễn Thy T”.
* Tòa sơ thẩm tuyên:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn – bà Nguyễn Thị Trường A xác định ông Nguyễn Hạnh P không phải là cha đẻ của cháu Nguyễn Thy T.
3. Bản án số 36/2019/HNGĐ-ST ngày 01/10/2019 của Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng.
* Nội dung bản án:
Chị PTH và anh PCN có quan hệ tình cảm từ tháng 9/2006 nên chị PTH có thai với anh PCN. Ngày 03/05/2007, chị PTH sinh cháu bé dự định đặt tên là G theo Giấy chứng sinh số: 041155 ngày 09/05/2007 của Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng. Chị PTH do không hiểu biết pháp luật nên đã lấy tên H (chị PTH tự nghĩ ra tên khác) khai ở phần mẹ của cháu G. Chị PTH cam kết H là người không có thật do chị tự nghĩ ra. Vì vậy, chị PTH đề nghị Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng xác nhận chị là mẹ đẻ của cháu G theo quy định pháp luật.
* Tòa sơ thẩm nhận định:
Xét thấy chị PTH và anh PCN có quan hệ tình cảm từ tháng 09/2006. Ngày 03/0/2007, chị PTH sinh cháu bé dự định đặt tên là G. Do không hiểu biết pháp luật và cần đi làm nên chị PHT đã lấy tên H (chị PHT tự nghĩ ra tên khác) khai ở phần mẹ của cháu G. Theo kết quả phân tích ADN, xác định bà PHT là mẹ đẻ của cháu G. Vì vậy, chị PTH đề nghị Tòa án xác nhận chị là mẹ đẻ của cháu G là có căn cứ.
* Tòa sơ thẩm tuyên:
chị PTH là mẹ đẻ của cháu G, chị PTH được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để thực hiện thủ tục cải chính giấy khai sinh cho cháu G theo quy định của pháp luật.
4. Bản án số 22/2019/HNGĐ-ST ngày 09/09/2019 của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
* Nội dung bản án:
Gia đình anh Nguyễn Tiến Đ và chị Nguyễn Thị A không có con nên chị T đã đồng ý đẻ hộ cho anh Đ và chị A. Ngày 15/4/2016, chị sinh cháu Nguyễn Thị Hồng B tại Bệnh viện E (Giấy chứng sinh số 79, quyền sổ 57). Sau khi sinh xong chị T để cháu N lại cho anh Đ và chị A nuôi dưỡng, đứng tên bố mẹ trên giấy khai sinh. Vợ chồng anh Đ nuôi cháu N được 2 năm thì giữa A và Đ ly hôn, anh Đ được giao nuôi con. Sau đó, chị T và anh Đ đã đăng ký kết hôn và cùng nuôi dưỡng cháu N. Nay chị T yêu cầu Tòa án xác định cháu N là con đẻ của chị T và anh Đ, làm lại giấy khai sinh cho cháu N.
* Tòa sơ thẩm nhận định:
Chị T có quan hệ tình cảm với anh Đ và sinh cháu N (nữ) vào ngày 15/4/2016. Cháu N được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp của anh Đ và chị A nhưng không phải là con chung của anh chị. Sau đó, chị A và anh Đ đã nhận cháu N làm con nuôi, nên chị T đã đề nghị tòa án xác định cháu N là con đẻ của chị và anh Đ. Tại bản Kết luận giám định số 243/C09-TT3 ngày 06/8/2019 thì anh Đ, chị T là cha đẻ, mẹ đẻ của cháu N. Về yêu cầu chấm dứt nuôi con nuôi của anh Đ: Xét yêu cầu của anh Đ yêu cầu chấm dứt nuôi con nuôi đối với cháu N vì cháu N là con đẻ và chị A cũng đồng ý phù hợp với quy định tại Khoản 3 Điều 26 Luật nuôi con nuôi nên chấp nhận
* Tòa sơ thẩm tuyên:
Chấp nhận yêu cầu xin xác định con cho cha mẹ của chị T xác định cháu N là con đẻ của chị T và anh Đ. Chấp nhận yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi của anh Đ và chị A đối với cháu N.
5. Bản án số 36/2018/HNGĐ-PT ngày 08/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh.
* Nội dung bản án:
Vào ngày 15/06/2013, chị T sinh cháu Phạm Trần Minh A tại nhà của bà Nguyễn Thị N2 (mụ vườn). Sau khi sinh được 02 ngày thì chị giao cháu Minh A cho bà Trần Thị V nuôi dưỡng. Chị T không có giấy chứng sinh và chị cũng không làm giấy khai sinh cho cháu Minh A. Sau khi nhận nuôi cháu Minh A, bà V đưa cháu Minh A lên nhà của chị Phạm Thị N3 để làm giúp việc cho chị N3 và chăm sóc cháu Minh A. Ngày 16/12/2016, chị N3 chết, hiện nay cháu Minh A do chị Trần Thị N và anh Trần Văn Q trực tiếp nuôi dưỡng. Nay chị T khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định cháu Phạm Trần Minh A, sinh 15/06/2013 là con đẻ của chị T và yêu cầu chị N, anh Q giao cháu Minh A cho chị trực tiếp nuôi dưỡng.
* Tòa sơ thẩm tuyên:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T về việc yêu cầu tòa án xác định cháu Phạm Trần Minh A, sinh ngày 15/06/2013 là con đẻ của chị T và yêu cầu chị Trần Thị N, anh Trần Văn Q giao cháu Minh A cho chị Võ Thị Mông T nuôi dưỡng.
* Tòa phúc thẩm nhận định:
Cháu Phạm Trần Minh A đang sinh sống cùng chị Trần Thị N và anh Trần Văn Q. Cháu A là con ruột của chị T, chị T sinh cháu ngày 15/06/2013 tại nhà bà Nguyễn Thị N2. Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm và phúc thẩm, chị T đều có yêu cầu giám định ADN đối với cháu Minh A. Tòa án đã yêu cầu chị N đưa cháu Minh A đến Tòa án để lấy mẫu xét nghiệm ADN theo yêu cầu của chị T. Tuy nhiên chị N từ chối, cho rằng việc xét nghiệm ADN ảnh hưởng đến việc phát triển tâm sinh lý của cháu Minh A. Do đó, Tòa án không thể tiến hành các thủ tục để giám định ADN. Tại kết quả giám định ADN kết luận “ Bằng kết luận ADN chứng minh ADN từ mẫu Võ Thị Mộng T và ADN từ mẫu Phạm Trần Minh A có cùng huyết thống “mẹ-con”. Mặc dù việc giám định ADN chưa được thực hiện theo trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật (do xét nghiệm theo yêu cầu cá nhân, tự thu thập mẫu) nhưng đây là một trong những tài liệu cần tham khảo. Vì nó phù hợp với những lời khai của những người làm chứng như bà V, bà N2 và những người dân xung quanh nhà chị N3. Chị N cho rằng cháu A là con ruột nhưng lại từ chối giám định.
Xét thấy hiện nay chị T không có việc làm ổn định, đồng thời chị T cũng có con riêng. Do đó, xét hoàn cảnh kinh tế của chị T không thể bảo đảm cho sự phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần cho cháu Minh A. Do vậy, cần giao cháu Minh A cho chị N tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng là có cơ sở.
* Tòa phúc thẩm tuyên:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Võ Thị Mộng T. Xác định cháu Phạm Trần Minh A là con ruột của chị Võ Thị Mộng T. Giao cháu Trần Minh A cho chị Trần Thị N và anh Trần Văn Q trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.
6. Bản án số 556/2018/HNGĐ-ST ngày 18/06/2018 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.
* Nội dung bản án:
Bà C và ông H chung sống như vợ chồng từ năm 2011 đến năm 2013 thì đăng ký kết hôn. Theo giấy khai sinh bé G thì có mẹ là C và cha là H nhưng thực tế thì ông H không phải là cha đẻ của G. Trong quá trình bảo lãnh cho trẻ G đi học ở Đài Loan cơ quan xét duyệt hồ sơ yêu cầu phải giám định ADN đối với cha và mẹ trẻ G. Bà C lo rằng khi ra kết quả giám định sẽ bị từ chối nên đã yêu cầu ông H đi làm thủ tục cải chính. Ông H không đồng ý và luôn khẳng định trẻ G là con đẻ của mình. Ngày 07/05/2018, bà C cũng ông H đã thực hiện giám định và có kết luận là ông H không phải là cha đẻ của G. Tuy nhiên, ông H vẫn một mực khẳng định G là con gái của mình.
* Tòa sơ thẩm nhận định:
Căn cứ Giấy khai sinh, căn cứ kết quả xét nghiệm ADN huyết thống với xác suất liên hệ cha con là 0%. Ông H thừa nhận và không có ý kiến tranh chấp với kết quả giám định. Từ những căn cứ trên có đủ cơ sở để chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn: Xác định ông H không phải là cha đẻ của trẻ G.
* Tòa sơ thẩm tuyên:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, bà C: xác định ông H không phải là cha đẻ của trẻ G. Bà C có quyền liên hệ với cơ quan chức năng để thực hiện cải chính hộ tịch cho trẻ G.
7. Bản án số 70/2017/HNST ngày 19/10/2017 của Tòa án nhân dân huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước.
* Nội dung bản án:
Vào tháng 02/2016, chị H có đi cạo mủ cao su thuê cho anh Đ. Đêm ngày 10/02/2016 chị H đi cạo mủ thì gặp anh Đ, khi đó anh Đ đang trong trạng thái say xỉn và có hành vi giao cấu với chị H, sau đó chị H có thai. Đến ngày 22/10/2016 chị H sinh 01 người con trai, chị H đặt tên con là Nguyễn T. Trong quá trình mang thai và sau khi sinh con anh Đ và gia đình anh Đ không hỏi thăm và cấp dưỡng. Nay chị H đề nghị Tòa án xác định anh Đ là cha ruột của cháu Nguyễn T và anh Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng cháu T.
* Tòa sơ thẩm nhận định:
Anh Đ thừa nhận vào ngày 10/02/2016 đã có quan hệ tình dục với chị H nhưng không công nhận cháu Nguyễn T là con của anh Đ. Anh Đ yêu cầu tòa án trưng cầu giám định, nếu kết quả cháu T là con của anh Đ thì anh chấp nhận đứng tên cha và có nghĩa vụ với cháu T. Kết luận giám định kết luận: “Nguyễn T không phải là con ruột của ông Trần Đ”. Đây là chứng cứ quan trọng, tuy kỹ thuật cũng có thể sai sót nên không phải kết quả cuối cùng và là bằng chứng duy nhất để kết luận quan hệ huyết thống. Hội đồng xét xử nhận thấy, trình tự, thủ tục lấy mẫu giám định và quá trình giám định ADN đều tuân thủ theo quy định của pháp luật, theo kết luận thì cháu T không phải là con anh Đ. Nguyên đơn không đưa ra được chứng cứ để chứng minh yêu cầu của mình là đúng nên ý kiến của chị A là không có căn cứ nên không được chấp nhận.
* Tòa sơ thẩm tuyên:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn H về việc yêu cầu công nhận anh Đ là cha ruột cháu Nguyễn T.
8. Bản án số 193/2017/HNGĐ-ST ngày 13/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
* Nội dung bản án:
Chị T và anh H quen biết nhau từ ngày 25/09/2014, đến đầu năm 2016 hai người nảy sinh tình cảm và có quan hệ với nhau nhiều lần dẫn đến có thai. Đến ngày 19/04/2017, chị T sinh được một cháu gái. Đến UBND thị trấn Nông Trường Mộc Châu khai sinh cho cháu và đặt tên cháu là A, họ tên cha là C. Vì trước đó chị T và anh C là vợ chồng và đã được Tòa án huyện Phù Cừ, Hưng Yên giải quyết công nhận thuận tình ly hôn ngày 30/06/2016 nên khi đi sinh sinh cho cháu A vẫn phải kê khai người cha là anh C. Anh H không quan tâm đến hai mẹ con và cũng không nhận cháu A là con chung. Nay chị T yêu cầu Tòa án xác định anh H là cha đẻ của cháu A và cải chính giấy khai sinh cho cháu A và không yêu cầu cấp dưỡng.
* Tòa án sơ thẩm nhận định:
Quá trình hòa giải và tại phiên tòa chị T và anh H thừa nhận và xác định cháu A do chị T sinh ra vào ngày 19/4/2017 là con đẻ của chị T và anh H việc thừa nhận trên là hoàn toàn phù hợp với lời khai của nguyên đơn, bị đơn và quy định tại Điều 91 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
Về việc xác định cháu A không phải con đẻ anh C: Anh C và chị T đã được Tòa án công nhận thuận tình ly hôn vào ngày 30/06/2016, sau đó không có quan hệ tình cảm cũng như quan hệ sinh lý. Chị T tự ý ghi tên cha là anh C. Do đó xác định anh C không phải cha đẻ của cháu A phù hợp với các chứng cứ trong hồ sơ vụ án.
* Tòa sơ thẩm tuyên:
Xử công nhận sự thỏa thuận giữa Chị T và anh H về việc xác định anh H là cha đẻ của cháu A do chị T sinh ra ngày 19/4/2017. Anh H có trách nhiệm làm thủ tục cải chính lại tên người cha trong giấy khai sinh cho cháu A.
9. Bản án số 65/2017/HNGĐ-ST ngày 9/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Bến Lức – Tỉnh Long An.
* Nội dung bản án:
Chị A, anh B quen biết nhau thông qua một người bạn. Chị A và ông B quan hệ với nhau từ giữa tháng 8/2012. Chị A phát hiện mang thai với ông B, khi thai được 4 tuần chị A có báo với ông B, ông B chấp nhận và hứa hẹn sẽ nuôi con chị sau sinh. Đến ngày 21/4/2013 chị A sinh được một bé trai, khi làm giấy khai sinh cho con, chị A đề nghị ông B đứng tên cha nhưng ông B nói còn vướng bận pháp lý với vợ nên không thể đứng khai sinh cho con. Vì lý do gia phong lễ giáo, danh dự gia đình nên chị A nhờ người bạn là ông D đứng tên trên giấy khai sinh cho con chị A. Từ tháng 8/2012 khi cháu Y được 2 tháng thì ông B cấp dưỡng, sau thì ông B không cấp dưỡng và cũng không đến thăm.
Ngày 14/11/2016, chị A giám định ADN và có kết luận ông B là cha ruột của cháu Y. Nay chị yêu cầu Tòa xác định ông B là cha ruột cháu Y. Yêu cầu cấp dưỡng 3.000.000/tháng đến khi cháu 18 tuổi.
Ông B cho rằng chị A sống với người đàn ông khác là anh D và họ tên người cha là D nên ông B ngưng cấp dưỡng, nếu chị A không có khả năng nuôi con thì ông B yêu cầu được nuôi con.
* Tòa án sơ thẩm nhận định:
Chị A và ông B thống nhất quan hệ tình cảm và tại kết luận giám định ông B là cha ruột của Y. Chị A nuôi cháu Y, cháu Y phát triển bình thường và tại bản tường trình ngày 26/7/2017 ông B đồng ý cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đồng. Do đó, yêu cầu của chị A là có căn cứ chấp nhận. Chi phí giám định ADN ông B phải chịu toàn bộ
* Tòa án sơ thẩm tuyên:
Xác định ông B sinh năm 198 là cha ruột của cháu Y sinh ngày 12/4/2013. Giao con chung Y cho chị A được nuôi dưỡng. Ông B có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con, mỗi tháng 3.000.000 đồng tính từ tháng 8/2017 đến khi cháu tròn 18 tuổi.
10. Bản án số 26/2017/HNGĐ-ST ngày 02/08/2017 của Tòa án nhân dân quận Kiến An, thành phố Hải Phòng.
* Nội dung bản án:
Anh P và chị H có đăng ký kết hôn năm 2016, trước khi kết hôn, chị H có chồng là anh C. Trong thời gian anh C đang chấp hành án, năm 2012 anh P và chị H có quan hệ tình cảm và chung sống với nhau như vợ chồng. Năm 2013, chị H sinh cháu K, do chị H và anh C chưa ly hôn nên anh không làm giấy khai sinh cho cháu K được. Do vậy, anh P khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định anh P là cha đẻ của cháu K.
* Tòa án sơ thẩm nhận định:
Tại phiếu kết quả phân tích AND số KQ 178790 ngày 09/03/2017 kết luận: Anh P và cháu K có quan hệ huyết thống Cha – con. Anh P đề nghị Tòa án nhân dân quận Kiến An xác định anh P là cha đẻ của cháu K là phù hợp với lời khai và các tài liệu có trong hồ sơ, có đủ cơ sở chấp nhận anh P và chị H là cha, mẹ đẻ của cháu K.
* Tòa án sơ thẩm tuyên:
Anh Trần Văn P là cha đẻ của cháu Trần Phúc K sinh năm 2013, Anh P không phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Trên đây là danh sách 10 bản án hôn nhân gia đình có tranh chấp xác định cha mẹ cho con hoặc con cho cha mẹ. Nhằm mang lại dịch vụ pháp lý tốt nhất cho khách hàng, mọi thắc mắc cần giải đáp thêm khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi theo thông tin phía dưới.
Công ty Luật TNHH MTV DB (DB Legal) là Công ty Luật Việt Nam cung cấp các dịch vụ pháp lý uy tín, chuyên nghiệp. Với đội ngũ nhân sự trách nhiệm, có chuyên môn cao, DB Legal là đối tác tin cậy cho khách hàng cá nhân và doanh nghiệp trong các vấn đề pháp lý tại Việt Nam.
Để biết thêm thông tin chi tiết vui lòng liên hệ với chúng tôi
Local Office Numbers: | |
Hotline/Zalo/Whatsapp: | +84 357 466 579 |
Email: | contact@dblegal.vn |
Bài viết liên quan:
- Tổng hợp 10 bản án hôn nhân gia đình có tranh chấp về tài sản, nuôi con mà vợ chồng sống chung không đăng ký kết hôn
- Tổng hợp 10 bản án hôn nhân gia đình có tranh chấp tài sản sau ly hôn
- Tổng hợp 10 bản án hôn nhân gia đình có tranh chấp về quyền nuôi con.
- Tổng hợp 10 bản án hôn nhân gia đình có tranh chấp về tài sản là quyền sử dụng đất.
- Công văn 60/TB-VKS-DS thông báo Rút kinh nghiệm về kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự
- Tổng hợp 10 bản án lao động về tranh chấp học nghề, tập nghề của Tòa án cấp phúc thẩm
- Tổng hợp 10 bản án lao động về tranh chấp xử lý kỷ luật, sa thải, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của Tòa án cấp phúc thẩm
- Tổng hợp 10 bản án lao động về tranh chấp liên quan đến việc làm, tiền lương của Tòa án cấp phúc thẩm
- Tổng hợp 10 bản án lao động về tranh chấp bồi thường thiệt hại, trợ cấp của Toà án cấp phúc thẩm.
- Tổng hợp 10 bản án liên quan đến tranh chấp giữa các thành viên trong công ty