Tổng hợp 10 bản án lao động về tranh chấp học nghề, tập nghề của Tòa án cấp phúc thẩm
Thống kê 10 bản án lao động về tranh chấp học nghề, tập nghề của Tòa án cấp phúc thẩm
Mục lục:
- 1. Bản án số 21/2017/LĐ-PT ngày 11/09/2017 của TAND tỉnh Đồng Nai về việc tranh chấp chi phí đào tạo trong hợp đồng đào tạo nghề.
- 2. Bản án số 02/2018/LĐPT ngày 16/08/2018 của TAND tỉnh Thái Bình về việc chấp về hợp đồng học nghề.
- * Nội dung bản án:
- * Toà án sơ thẩm tuyên:
- * Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:
- * Toà án phúc thẩm tuyên:
- 3. Bản án số 854/2018/LĐ-PT ngày 24/09/2018 của TAND TP. Hồ Chí Minh về việc tranh chấp về đền bù chi phí đào tạo.
- 4. Bản án số 02/2019/LĐ-PT ngày 18/07/2019 của TAND cấp cao tại Hà Nội về việc tranh chấp bồi thường phí đào tạo.
- 5. Bản án số 03/2019/LĐPT ngày 28/03/2019 của TAND TP. Hà Nội về việc chấp về yêu cầu bồi thường chi phí đào tạo.
- 6. Bản án số 1156/2019/LĐ-PT ngày 29/11/2019 của TAND TP. Hồ Chí Minh về việc tranh chấp về bồi thường thiệt hại chi phí đào tạo
- 7. Bản án số 04/2022/LĐ-PT ngày 22/04/2022 của TAND tỉnh Phú Yên về việc yêu cầu hoàn trả chi phí đào tạo, tiền thưởng và bồi thường thiệt hại do vi phạm cam kết.
- 8. Bản án 23/2017/LĐ-PT ngày 29/09/2017 về tranh chấp trợ cấp thôi việc và chi phí đào tạo nghề.
- 9. Bản án về yêu cầu hoàn trả chi phí đào tạo, tiền thưởng và bồi thường thiệt hại do vi phạm cam kết số 04/2022/LĐ-PT
- 10. Bản án 01/2021/LĐ-PT ngày 04/01/2021 về tranh chấp bồi thường chi phí đào tạo
1. Bản án số 21/2017/LĐ-PT ngày 11/09/2017 của TAND tỉnh Đồng Nai về việc tranh chấp chi phí đào tạo trong hợp đồng đào tạo nghề.
* Nội dung bản án:
Bà Nguyễn Thị N (sau đây gọi tắt là bà N) làm việc tại Công ty trách nhiệm hữu hạn E (sau đây gọi tắt là Công ty E) từ ngày 17/02/2012 theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, sau đó bà N và Công ty E ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn, công việc làm là công nhân may, mức lương 3.486.000đ/tháng.
Ngày 05/02/2013, bà N và Công ty E ký hợp đồng lao động đưa bà N đi tu nghiệp kỹ thuật kinh nghiệm sản xuất với thời gian là 01 năm tại Công ty U (tại Nhật) nhưng Công ty E không giao cho bà N 01 bản hợp đồng đã ký. Theo nội dung hợp đồng, sau khi về nước bà N phải làm việc tại Công ty E thời hạn là 10 năm và Công ty E sẽ chịu toàn bộ chi phí cho bà N gồm: hộ chiếu, visa, xé máy bay khứ hồi, nhà ở, điện, nước, gas, tiền học phí, phí giao thông. Tuy nhiên, Công ty E không thực hiện đúng cam kết mà khi làm việc tại Công ty U, hàng tháng bà N bị trừ tiền nhà ở, điện, nước, gas mỗi tháng 40.000 Yên, tổng cộng 12 tháng là 480.000 Yên (theo tỷ giá tiền Việt Nam là 85.000.000đ). Do không hiểu biết quy định của pháp luật lao động và không được Công ty E giao hợp đồng lao động, nên đến ngày 31/7/2015, khi biết Công ty E hoàn trả cho ông Nguyễn Hữu T (sau đây gọi tắt là ông T) số tiền 85.000.000đ, bà N mới phát hiện quyền lợi của mình bị xâm phạm. Bà N đã yêu cầu Công ty E thanh toán tiền nhà ở, điện, nước, gas mỗi tháng 40.000 Yên nhưng không được chấp nhận và bà N yêu cầu hòa giải viên lao động tiến hành hòa giải nhưng hòa giải không thành.
Nay bà N khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty E phải trả các khoản tiền nhà ở, điện, nước, gas mỗi tháng 40.000 Yên, tổng cộng 12 tháng là 480.000 Yên (tỷ giá tiền Việt Nam là 85.000.000đ).
* Toà án sơ thẩm tuyên:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị N
2. Buộc Công ty TNHH E phải thanh toán cho bà Nguyễn Thị N số tiền 85.000.000đ (tám mươi lăm triệu đồng) chi phí đào tạo
* Tòa án phúc thẩm nhận định:
- Về thời hiệu khởi kiện: Xét quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn Thị N và bị đơn (Công ty E) đều không cung cấp được hợp đồng lao động về việc đào tạo nâng cao tay nghề cho công nhân tại Công ty U (tại Nhật); về phía người lao động bà N cũng không biết tiếng Nhật. Theo bà N, trên cơ sở Công ty E giải quyết chế độ đào tạo cho ông Nguyễn Hữu T (là công nhân Công ty E được đưa đi đào tạo như bà N) vào ngày 31/7/2015, bà N mới biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, nên ngày 16/10/2015 bà N khởi kiện Công ty E là còn thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 202 Bộ luật Lao động năm 2012.
- Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn Thị N và bị đơn đều không cung cấp được hợp đồng lao động về việc đào tạo nâng cao tay nghề cho công nhân tại Công ty U. Theo đại diện theo ủy quyền của bị đơn, mọi chi phí gồm hộ chiếu, visa, vé máy bay khứ hồi, nhà ở, điện, nước, gas, tiền học phí, phí giao thông của bà N khi làm tại Nhật do Công ty U chi trả; nhưng theo lời khai của bà N, bà Nguyễn Kiều O và ông Nguyễn Hữu T (là những người được đưa đi đào tạo tại Nhật trước và sau bà N) đều xác định không được Công ty E giao hợp đồng, chỉ biết có thỏa thuận Công ty E chịu tất cả các chi phí cho người lao động khi sang đào tạo tại Nhật và khi làm việc tại Nhật, bà N (cũng như ông T và bà O) đều xác định Công ty U trực tiếp thanh toán, chi trả toàn bộ các khoản tiền (qua tài khoản bà N, ông T, bà O được lập khi sang Nhật làm việc) và hàng tháng Công ty U có giao cho người lao động các bảng lương để kiểm tra. Mặt khác, bà Nguyễn Thị A là đại diện theo ủy quyền của Công ty E đã cung cấp cho Tòa án 01 bản dịch tài liệu của Công ty U gửi cho Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa (trong vụ án khác có nội dung tranh chấp tương tự như trường hợp khởi kiện của bà N) với nội dung Công ty E không liên quan trong việc chi trả kinh phí cho công nhân sang Nhật tu nghiệp. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án trong khi chưa tiến hành làm việc, xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ về quan hệ, thỏa thuận hợp đồng giữa Công ty E và Công ty U trong việc đưa người lao động đi tu nghiệp nâng cao tay nghề tại Nhật, trong việc thanh toán các chi phí của người lao động để trên cơ sở đó xác định tư cách tố tụng của Công ty U theo khoản 4 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và xác định thẩm quyền giải quyết vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
- Về xác định chứng cứ: Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ các bảng lương của Công ty U (đều bằng tiếng nước ngoài không có bản dịch sang tiếng Việt được công chứng, chứng thực) do bà N cung cấp để nhận định “Theo bảng lương hàng tháng của bà N, ông T đều thể” để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tuy tại phiên tòa phúc thẩm, các bảng lương đã được dịch sang tiếng Việt; tuy nhiên, các tài liệu này đều là bản phô tô, không có dấu mộc, từng khoản thanh toán, chi phí thể hiện trên bảng lương chưa được làm rõ. Do đó, việc thu thập, đánh giá chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng theo Điều 95, 96 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Từ những nhận định trên, do Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng nên Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị A là đại diện theo ủy quyền của Công ty E, hủy bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
* Toà án phúc thẩm tuyên:
1. Hủy Bản án lao động sơ thẩm số: 09/2017/LĐ-ST ngày 18 tháng 4 năm 2017 của Tòa án nhân dânthành phố B xét xử vụ “tranh chấp chi phí đào tạo trong hợp đồng đào tạo nghề” giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị N với bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn E; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố B giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
2. Về án phí: Hoàn trả Công ty trách nhiệm hữu hạn E số tiền 300.000 đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí lao động phúc thẩm đã nộp tại biên lai số 009285 ngày 12/5/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
2. Bản án số 02/2018/LĐPT ngày 16/08/2018 của TAND tỉnh Thái Bình về việc chấp về hợp đồng học nghề.
* Nội dung bản án:
Công ty Cổ phần B ký Hợp đồng học việc số 127/HĐHV 2014 ngày 01/12/2014 với anh Nguyễn Quang L với nội dung: Anh L tham gia học việc tại Công ty Cổ phần B từ 01/12/2014 đến 30/5/2017 và cam kết làm việc 24 tháng sau khi kết thúc thời gian học việc. Trong thời gian học việc anh L được Công ty Cổ phần B đào tạo nghề và tài trợ toàn bộ học phí, chi phí đào tạo, trợ cấp hàng tháng theo chương trình nhân viên học việc của Công ty.
Tuy nhiên đến ngày 22/6/2017 anh L đã tự ý không tiếp tục thực hiện Hợp đồng học việc nêu trên, không có L do và không được sự đồng ý của Công ty Cổ phần B, việc này trái với nội dung thỏa thuận trong hợp đồng tại điều 6 mà hai bên đã ký, vì vậy anh L phải trả toàn bộ chi phí đào tạo là 43.500.000 đồng và trợ cấp nhân viên học việc là 82.127.000 đồng đã nhận của công ty. Tổng cộng là 125.627.000 đồng. Công ty cổ phần B đã nhiều lần liên hệ làm việc với anh L để yêu cầu bồi thường nhưng anh L cố tình không hợp tác cũng như không có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của mình.
Hành vi nêu trên của anh L đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty cổ phần B. Vì vậy nay công ty B khởi kiện yêu cầu anh L phải hoàn trả toàn bộ chi phí đào tạo và trợ cấp đã nhận của công ty là125.627.000 đồng.
Tại phiên tòa sơ thẩm Công ty Cổ phần B rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với anh L về chi phí đào tạo là 43.500.000 đồng và chỉ yêu cầu anh L hoàn trả số tiền trợ cấp nhân viên học việc là 82.127.000 đồng đã nhận của Công ty.
* Toà án sơ thẩm tuyên:
1. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu về chi phí đào tạo là 43.500.000 đồng của Công ty Cổ phần B đối với anh Nguyễn Quang L.
2. Xử chấp nhận đối với yêu cầu về số tiền trợ cấp nhân viên học việc là 82.127.000 đồng của Công ty Cổ phần B đối với anh Nguyễn Quang L.
3. Xử buộc anh Nguyễn Quang L phải hoàn trả cho Công ty Cổ phần B số tiền trợ cấp nhân viên học việclà 82.127.000 đồng.
* Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:
- Về tố tụng: Ngày 12/01/2018, anh Nguyễn Quang L nộp đơn kháng cáo tại Tòa án là trong thời hạn kháng cáo theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự là hợp lệ và đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm, nên được xem xét theo trình tự xét xử phúc thẩm.
- Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn, thấy: Theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty Cổ phần của Công ty Cổ phần B số 0101360697 đăng ký thay đổi lần thứ 11 ngày 16/5/2014 Sở kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội cấp thì có đăng ký ngành, nghề kinh doanh: Lập trình máy vi tính, sản xuất máy vi tính và thiết bị ngoại vi của máy vi tính, dạy máy vi tính...Vì vậy, Công ty Cổ phần B và anh L ký Hợp đồng học việc số 127/HĐHV2014 ngày 01/12/201, nội dung đào tạo gồm: Nghiên cứu mã giải độc, các giải pháp chống mã độc; phát triển sản phẩm phòng chống mã độc; nghiên cứu phát triển sản phẩm an ninh cho nền tảng di động là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 61 Bộ luật lao động quy định về việc học nghề, tập nghề để làm việc cho người sử dụng lao động.
- Xét thấy, việc ký kết Hợp đồng học việc số 127/HĐHV2014 ngày 01/12/2014 giữa Công ty Cổ phần B với anh L là hoàn toàn tự nguyện, đúng quy định của pháp luật, không vi phạm đạo đức xã hội. Trong các điều khoản của Hợp đồng học việc có các nội dung: Anh L tham gia học việc tại Công ty cổ phần B từ 01/12/2014 đến 30/5/2017 với cam kết sẽ làm việc cho Công ty với thời hạn 24 tháng kể từ khi kết thúc thời gian học việc. Trong thời gian học việc anh L được Công ty đào tạo nghề và tài trợ toàn bộ học phí, chi phí đào tạo, trợ cấp hàng tháng theo chương trình nhân viên học việc của Công ty; anh L phải bồi thường cho Công ty Cổ phần B toàn bộ học phí và trợ cấp đã nhận nếu kết thúc chương trình học việc, anh L từ chối làm việc cho Công ty Cổ phần B hoặc làm việc không đủ thời gian đã cam kết. Sau khi kết thúc thời gian học việc anh Lđã làm việc cho Công ty Cổ phần B, đến ngày 22/6/2017 anh L đã đơn phương không làm việc cho Công ty Cổ phần B theo thỏa thuận tại Hợp đồng học việc, nên phải bồi thường cho Công ty Cổ phần B toàn bộ khoản trợ cấp đã nhận. Anh L trình bày ngay từ tháng 12/2014 đã làm ra các sản phẩm cho Công ty Cổ phần B, nên Công ty phải trả công cho anh Lvà cung cấp cho Tòa án bảng theo dõi kết quả công việc mà anh L đã làm và báo cáo với Công ty Cổ phần B. Xét thấy, tài liệu, chứng cứ do anh L cung cấp cho Tòa án chỉ là bản photo, phía Công ty B cũng không thừa nhận nên không có giá trị chứng minh.
- Xét yêu cầu kháng cáo của anh L về việc tiền công 22 ngày của tháng 6/2017 chưa được Công ty Cổ phần B trả nhưng Tòa án xem xét, thấy: Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm anh L không có yêu cầu phản tố về việc Công ty Cổ phần B chưa thanh toán tiền công 22 ngày của tháng 6/2017, Tòa án cấp sơ thẩm không xém xét giải quyết là đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Sau khi xét xử sơ thẩm anh L kháng cáo về yêu cầu này, nên Tòa án cấp phúc thẩm không có căn cứ đểgiải quyết. Anh L có quyền khởi kiện bằng vụ án lao động khác.
- Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của công ty Cổ phần B là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Nên không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Nguyễn Quang L.
* Toà án phúc thẩm tuyên:
- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Nguyễn Quang L, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 01/2018/LĐ-ST ngày 12 tháng 01 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình
- Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu về chi phí đào tạo là 43.500.000 đồng của Công ty Cổ phần B đối với anh Nguyễn Quang L.
- Xử chấp nhận đối với yêu cầu về số tiền trợ cấp nhân viên học việc là 82.127.000 đồng của Công ty Cổ phần B đối với anh Nguyễn Quang L.
- Xử buộc anh Nguyễn Quang L phải hoàn trả cho Công ty Cổ phần B số tiền trợ cấp nhân viên học việc là 82.127.000 đồng.
3. Bản án số 854/2018/LĐ-PT ngày 24/09/2018 của TAND TP. Hồ Chí Minh về việc tranh chấp về đền bù chi phí đào tạo.
* Nội dung bản án:
Bệnh viện M có ký hợp đồng lao động tuyển dụng ông Lê Mạnh Q làm việc với chức danh bác sĩ, thể hiện ở 04 hợp đồng lao động kể từ ngày 01/3/2008. Hợp đồng làm việc cuối cùng ngày 01/2/2015, là hợp đồng khôngxác định thời hạn.
Ngày 12/11/2014, Bệnh viện M ban hành quyết định số 1229/QĐ-BVND 115 về việc cử ông Lê Mạnh Q đi học cao học chuyên ngành ngoại tổng quát với thời gian là 02 năm từ tháng 11/2014 đến tháng 11/2016. Trước khi tham gia khóa học, ông Lê Mạnh Q đã tự nguyện cam kết ngày 23/10/2014 về việc thực hiện trách nhiệmcủa người được cử đi đào tạo với nội dung.
- Phải phục vụ cho Bệnh viện ít nhất gấp 2 lần thời gian của khóa đào tạo;
- Bồi thường cho Bệnh viện toàn bộ chi phí đào tạo mà Bệnh viện đã cấp.
- Bồi hoàn cho Bệnh viện gấp 2 lần các khoản “thu nhập tăng thêm” được hưởng trong thời gian đào tạo (baogồm tiền thưởng ngày lễ, tết).
- Bồi thường cho Bệnh viện số tiền gấp 2 lần số tiền lương được hưởng trong thời gian đào tạo.
Trong thời gian đi học, ông Q vẫn tiếp tục làm việc cho Bệnh viện. Khi hoàn thành khóa học từ tháng 10/2016, ông Q đã trở về làm việc tại Bệnh viện được 4 tháng. Sau đó ông Q nộp đơn xin nghỉ việc vào ngày 08/2/2017. Trong thời gian 45 ngày báo trước đó, ông Q đã nghỉ việc từ ngày 22/02/2017.
Ngày 24/5/2017 Bệnh viện ban hành quyết định số 357/BVND 115 về việc bồi thường chi phí đào tạo đối vớiông Lê Mạnh Q. Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn - Bệnh viện M, ông Nguyễn Quang T yêu cầu ông Lê Mạnh Q phải bồi thường chi phí đào tạo cho Bệnh viện M theo Quyết định về việc bồi thường chi phí đào tạo theo tờ trình về việc thu hồi chi phí đào tạo của viên chức nghỉ việc ngày 22/5/2017 đối với ông Lê Mạnh Q với số tiền là 192.965.105 đồng. Cụ thể: Bệnh viện tính ra chi phí đào tạo phải bồi thường: Do ông Q phải có nghĩa vụ phục vụ trong 48 tháng (theo cam kết ngày 23/10/2014). Các khoản tiền ông Q đã nhận của bệnh viện từ ngày 23/10/2014, đến tháng 02/2017, ông có phục vụ được hơn 4 tháng, nên ông phải bồi thường chi phí đào tạo theo bản cam kết là (211.402.908 đồng : 48) x (48 - 5) = 189.381.772 đồng (1). (Diễn giải số tiền này gấp 3 lần số tiền thu nhập tăng thêm), hỗ trợ đời sống, Lễ, Tết mà ông Q đã nhận từ các năm sau đây:
Năm 2014, tiền hỗ trợ đời sống và thu nhập tăng thêm: 9.421.749 đồng
Năm 2015: là 45.665.346 đồng
Năm 2016: 34.965.813 đồng. Tổng cộng: 90.052.908 đồng, Tiền thưởng Lễ, Tết: 121.350.000 đồng, Tổng cộng: 211.402. 908 đồng ).
Bệnh viện có hỗ trợ chi phí đào tạo cho ông Q là 4.000.000 đồng: 4.000.000 đồng : 48 – ( 48 - 5) = 3.583.333đồng (2).
Cộng 2 khoản (1) và (2) là 192.965.105 đồng.
Bị đơn ông Lê Mạnh Q trình bày: ông xác định lời khai của nguyên đơn về hợp đồng lao động, về việc được cử đi học, và việc ký cam kết là đúng.
Sau thời gian hoàn thành khóa học từ ngày 01/11/2014 đến ngày 12/11/2016, ông trở về và làm thêm 04 tháng nữa và do không chịu đựng nổi áp lực công việc, sức khỏe giảm sút nên đến ngày 08/2/2017 ông làm đơn xin nghỉ việc tại bệnh viện (đây là mốc thời gian ông báo trước sẽ nghỉ việc), cho đến ngày 17/2/2017, do bị sốt và mệt mỏi nên ông đã nghỉ ốm. Đến ngày 22/2/2017, ông chính thức viết đơn xin nghỉ việc trước thời hạn.
* Toà án sơ thẩm tuyên:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn
2. Buộc bị đơn - ông Lê Mạnh Q phải đền bù chi phí đào tạo lại cho Bệnh Viện M số tiền là 3.666.666 đồng (Ba triệu sáu trăm sáu nghìn, sáu trăm sáu mươi sáu đồng).
3. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn Bệnh Viện M đòi ông Lê Mạnh Q thanh toán số tiền 189.381.772 đồng (Một trăm tám mươi chín triệu, ba trăm tám mươi mốt nghìn, bảy trăm bảy mươi hai đồng).
* Tòa án phúc thẩm nhận định:
- Về tố tụng: Kháng cáo của nguyên đơn nằm trong hạn luật định phù hợp khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (sau đây viết tắt là BLTTDS) nên được chấp nhận.
- Nguyên đơn kháng cáo và đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Vì vậy Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ nội dung vụ án.
- Theo thừa nhận của đôi bên thì giữa nguyên đơn và bị đơn có ký 04 hợp đồng lao động và làm việc, hợp đồng cuối cùng ngày 01/02/2015 là hợp đồng làm việc không xác định thời hạn. Hợp đồng làm việc giữa hai bên là phù hợp với Nghị định 116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng cán bộ, công chức trong đơn vị sự nghiệp nhà nước, và Luật Viên chức năm 2010 do đó đôi bên đều phải có nghĩa vụ tôn trọng và chấp hành các quyền và nghĩa vụ của đơn vị sử dụng lao động và viên chức trong đơn vị, cũng như những quy định được ký kết trong hợp đồng làm việc.
- Ngày 12/11/2014, nguyên đơn ban hành quyết định số 1229/QĐBVND 115 về việc cử bị đơn đi học cao học chuyên ngành ngoại tổng quát với thời gian là 02 năm từ tháng 11/2014 đến tháng 11/2016. Trước khi tham gia khóa học, bị đơn đã có văn bản cam kết ngày 23/10/2014 về việc thực hiện yêu cầu phát triển trình độ nghề nghiệp của bản thân, và cũng là nghĩa vụ của Viên chức theo khoản 4 Điều 17 Luật Viên chức năm 2010. Việc cử bị đơn đi đào tạo là phù hợp với trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp công lập được quy định tại khoản 1 Điều 34 Luật Viên chức năm 2010, và cũng là nhu cầu phát triển của đơn vị sử dụng lao động. Trước khi đi học bị đơn có cam kết phục vụ cho đơn vị gấp đôi thời gian đào tạo, nội dung cam kết này phù hợp với điểm b khoản 2 Điều 36 Nghị định số 29/2012/NĐ-CP của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức, tuy nhiên theo thừa nhận của bị đơn thì sau khi kết thúc khóa học bị đơn chỉ làm việc trong đơn vị được 04 tháng, với lý do bị ốm nhưng không có chứng cứ nào chứng minh bị đơn không thể làm việc vì lý do sức khỏe, như vậy bị đơn đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của một viên chức và cam kết của bản thân đối với đơn vị cử đi học. Do đó, hành vi của bị đơn trường hợp phải bồi thường theo quy định tại điểm c khoản 4 Điều 36 Nghị định 29/2012/NĐ-CP.
- Theo khoản 1 Điều 17 Thông tư số 15/2012/TT-BNV ngày 25/12/2012 của Bộ Nội vụ hướng dẫn về tuyển dụng, ký kết hợp đồng làm việc và đền bù chi phí đào tạo, bồi dưỡng đối với viên chức thì “Chi phí đền bù bao gồm học phí và tất cả các khoản chi khác phục vụ cho khóa học, không tính lương và các khoản phụ cấp nếu có”. Trong quá trình giải quyết vụ án đôi bên thống nhất khoản tiền hỗ trợ trực tiếp cho bị đơn số tiền 4.000.000 đồng, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm c khoản 2 của Điều 17 của Thông tư số 15/2012/TT-BNV, đối với trường hợp thôi việc thuộc Điểm c Khoản 4 Điều 36 của Nghị định 29/2012/NĐ-CP để buộc bị đơn phải đền bù, chi phí đền bù dược tính theo công thức. S =( F/ T1) x (T1- T2). (Trong đó S là chi phí phải đền bù; F là số tiền được hỗ trợ: T1 là thời gian cam kết phải thực hiện; T2 là thời gian mà người lao động đã thực hiện theo cam kết), với số tiền cụ thể (4.000.000 đồng : 48) x (48 - 4) = 3.66.666 đồng là đúng, nguyên đơn không kháng cáo nội dung này. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên phần quyết định này của bản án sơ thẩm.
- Đối với khoản cam kết đền bù cho Bệnh viện gấp 2 lần các khoản “thu nhập tăng thêm” được hưởng trong thời gian đào tạo (bao gồm tiền thưởng ngày lễ, Tết) nguyên đơn có yêu cầu bị đơn phải có nghĩa vụ hoàn trả, phía bị đơn không đồng ý vì cho rằng số tiền này là khoản tiền phụ cấp và không thuộc về “Các chi phí phục vụ khóa học”. Theo sự thừa nhận của đôi bên thì khóa học của nguyên đơn là khóa vừa học toàn thời gian, nhưng thời gian không lên lớp thì bị đơn vẫn làm việc bình thường. Theo điểm d Điều 9 Quy chế Đào tạo của Bệnh viện M thì trong thời gian đi học viên chức được hưởng “Các khoản ngoài lương như (tiền ăn trưa, thưởng lễ, Tết và các khoản thu nhập tăng thêm) giao cho khoa, phòng và do trưởng khoa/phòng quyết định tỷ lệ hưởng tùy theo mức độ tham gia công tác ở khoa/phòng khi đi học). Như vậy, khoản tiền thu nhập tăng thêm, tiền thưởng lễ, Tết trong thời gian bị đơn học tập, là khoản tiền mà bị đơn được hưởng theo mức độ làm việc của mình trong đơn vị, không thuộc về các chi phí phục vụ khóa học theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 17 Thông tư số 15/2012/TT-BNV. Do đó, nguyên đơn kháng cáo yêu cầu bị đơn phải bồi hoàn khoản tiền này là không có cơ sở chấp nhận.
- Từ những nhận định trên, xét không có cơ sở chấp nhận nội dung kháng cáo của nguyên đơn, và bị đơn nên giữ nguyên bản án sơ thẩm. Tuy nhiên phần Quyết định của bản án cấp sơ thẩm chưa tách biệt từng vấn đề phải giải quyết trong vụ án (theo điểm c khoản 2 Điều 266 BLTT DS), chưa hướng dẫn đầy đủ quyền, nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan theo Điều 7a và 7b luật Sửa đổi, bổ sung một số đều của luật Thi hành án dân sự năm 2014. Chính vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm có điều chỉnh bổ sung phần Quyết định của bản án sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.
* Toà án phúc thẩm tuyên:
1. Không chấp nhận đơn kháng cáo của Bệnh viện M, giữ nguyên bản án sơ thẩm:
2. Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn:
Buộc bị đơn - ông Lê Mạnh Q phải đền bù chi phí đào tạo lại cho Bệnh viện Nhân dân 115 số tiền là 3.666.666 đồng (Ba triệu sáu trăm sáu nghìn, sáu trăm sáu mươi sáu đồng).
3. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn Bệnh viện M yêu cầu ông Lê Mạnh Q thanh toán số tiền 189.381.772 đồng (Một trăm tám mươi chín triệu, ba trăm tám mươi mốt nghìn, bảy trăm bảy mươi hai đồng).
4. Kể từ ngày Bản án có hiệu lực và kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành chưa thi hành các khoản tiền phải nộp thì hàng tháng còn phải chịu mức lãi suất nợquá hạn theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, trên số tiền chậm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả.
5. Án phí dân sự sơ thẩm về lao động: Ông Lê Mạnh Q chịu là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng. Bệnh viện M chịu 5.681.453 (Năm triệu sáu trăm tám mươi mốt nghìn, bốn trăm năm mươi ba) đồng nhưng được trừ vào số tiền 2.894.476 đồng, theo biên lai thu số 0001959 ngày 30/10/2017 của Chi cục Thi hành án Dân sự Quận 10, Bệnh viện M còn phải nộp thêm 2.786.977 (Hai triệu bảy trăm tám mươi sáu nghìn, chín trăm bảy mươi bảy) đồng.
6. Án phí dân sự phúc thẩm: 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) do Bệnh viện M phải chịu, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí kháng cáo theo biên lai thu tiền số AA/2017/0040881 ngày 04/6/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Bệnh viện M đã nộp đủ án phí dân sựphúc thẩm.
4. Bản án số 02/2019/LĐ-PT ngày 18/07/2019 của TAND cấp cao tại Hà Nội về việc tranh chấp bồi thường phí đào tạo.
* Nội dung bản án:
Ngày 30/5/2017, Công ty TQ (sau đây gọi tắt là Công ty) do Ông WS, Tổng Giám đốc đại diện đã ký 01 hợp đồng đào tạo với anh Ngô Xuân Q. Thời gian đào tạo từ ngày 01/8/2016 cho đến 30/4/2017. Chi phí đào tạo là 461.500.000 đồng. Theo quy định tại mục 4 khoản 2 của hợp đồng đào tạo thì anh Q phải làm việc cho Công ty trong thời hạn 03 năm kể từ ngày hoàn tất khóa đào tạo. Cùng ngày giữa Công ty và anh Q có ký 01 hợpđồng lao động với thời hạn 03 năm.
Ngày 27/8/2017, anh Ngô Xuân Q nộp đơn xin nghỉ việc vì lý do gia đình. Ngày 30/9/2017 Công ty ban hành Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động đối với anh Q vì anh Q vi phạm hợp đồng đào tạo và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến công việc của Công ty, ảnh hưởng tâm lý đối với những nhân viên được cử đi đào tạo. Công ty yêu cầu anh Q phải hoàn trả chi phí đào tạo với số tiền là 410.222.000 đồng.
Anh Ngô Xuân Q trình bày: Anh tốt nghiệp Thạc sỹ tại Học viện điện lực Thượng Hải, Trung Quốc, sau đó về làm việc tại Công ty hữu hạn công trình Kiểm tu điện lực Trung Quốc.Trong quá trình làm việc anh đã hỗ trợ Công ty về việc tuyển dụng nhân lực để đưa đi đào tạo, thành lập Công ty con để điều hành ở Việt Nam. Quá trình tuyển người đưa đi đào tạo do thiếu người nên Công ty đã bổ sung anh và một người nữa cho đủ chỗ. Tuy nhiên khi tham gia lớp học anh hiểu mình là thành viên của bên đào tạo chứ không phải học viên. Trong các buổi lên lớp anh đã hỗ trợ rất nhiều người hiểu được bài giảng. Sau khi về Việt Nam, trong khi anh chưa thanh lý hợp đồng lao động với Công ty kiểm tu thì Công ty TQ (là công ty con của Công ty TQ) đã yêu cầu anh ký 01 hợp đồng đào tạo, 01 hợp đồng lao động với Công ty. Trong hoàn cảnh cần việc làm, hơn nữa anh cũng có đề nghị với Ban giám đốc Công ty nếu yêu cầu anh phải bồi thường phí đào tạo thì anh sẽ không ký, nhưng Ban giám đốc động viên nên anh đã ký. Sau khi vào làm việc tại Công ty vì lý do gia đình nên anh xin chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn. Nay Công ty khởi kiện yêu cầu anh phải thanh toán phí đào tạo, anh không đồng ý.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 06/12/2018, anh Ngô Xuân Q kháng cáo, nội dung đơn kháng cáo là yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
* Toà án sơ thẩm tuyên:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TQ đối với anh Ngô Xuân Q về việc đòi bồi thường chi phí đào tạo.
2. Buộc anh Ngô Xuân Q phải có trách nhiệm trả cho Công ty TQ 410.222.000 đồng.
* Tòa án phúc thẩm nhận định:
- Tại phiên tòa sơ thẩm cũng như phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; bị đơn vẫn giữ nguyên quan điểm như ở Tòa án cấp sơ thẩm, các đương sự không bổ sung thêm tài liệu chứng cứ nào khác và cũng không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
- Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và các lời khai của nguyên đơn,cho thấy: Ngày 30/5/2017, anh Ngô Xuân Q ký hợp đồng đào tạo với Công ty TQ, hợp đồng này có nội dung: Anh Ngô Xuân Q tham gia khóa đào tạo của Công ty thời gian từ ngày 01/8/2016 đến ngày 30/4/2017. Địa điểm đào tạo: Việt Nam - Trung Quốc. Kinh phí đào tạo: Bên A chịu chi phí hoàn toàn. Chi phí đào tạo là 461.500.000 đồng, trong đó bao gồm phí đào tạo,ăn ở, giao thông và các khoản chi phí khác trong thời gian đào tạo. Sau khi kết thúc đào tạo phải trở về vị trí làm việc theo yêu cầu của bên A, tiếp tục phục vụ Bên A, thời hạn tính từ ngày trở về vị trí công việc với thời gian 3 năm. Nếu trong thời gian công tác, bên B vì lý do cá nhân chấm dứt hợp đồng lao động, hoặc bên A chấm dứt hợp đồng lao động vì bên B sai lầm trong công việc, bên B phải đền bù bên A; nếu số tiền vi phạm không đủ đền bù cho bên A toàn bộ tổn thất, bên B tiếp tục còn trách nhiệm đền bù. Tính tiền đền bù bằng thời gian còn lại của hợp đồng tương ứng với số tiền đào tạo, cụ thể: Tiền đền bù = Tổng số tiền đào tạo x Thời hạn còn lại của hợp đồng: Thời gian cam kết của hợp đồng. Ngay sau khi ký kết hợp đồng đào tạo, giữa anh Q và Công ty đã ký kết 01 hợp đồng lao động với thời hạn 03 năm kể từ ngày 01/6/2017 đến ngày 31/5/2020. Anh Q đã vào làm việc tại Công ty từ ngày 01/6/2017; ngày 27/8/2017, anh Q xin nghỉ việc với lý do hoàn cảnh gia đình khó khăn. Ngày 30/9/2017, Công ty đã ban hành Quyết định chấm dứt hợp đồng lao độngđối với Anh Ngô Xuân Q. Ngày 15/5/2018, Công ty khởi kiện anh Q tại Tòa án thành phố Hà Nội yêu cầu bồi thường chi phí đào tạo.Trong quá trình giải quyết vụ án anh Q cho rằng, anh không có danh sách cử đi học, anh tham gia khóa học với tư cách là người quản lý chứ không phải là học viên. Sau khi đi đào tạo về anh được Công ty cấp chứng chỉ đào tạo. Khi ký hợp đồng đào tạo phía Công ty có hứa với anh là cứ ký sau này có vấn đề gì sẽ không yêu cầu bồi thường, nên anh đã ký vào hợp đồng. Về phía Công ty trước sau đều khẳng định anh Q tham gia khóa đào tạo, được cấp chứng chỉ. Sau khi đi đào tạo về anh Q đã ký hợp đồng lao động.
- Xét kháng cáo của anh Q thì thấy: Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở xác định anh Ngô Xuân Q có tham gia khóa đào tạo do Công ty tổ chức từ ngày 01/8/2016 cho đến ngày 30/4/2017 hết tổng số tiền là 461.500.000 đồng, sau đó được cấp chứng chỉ đào tạo và đã ký hợp đồng lao động với Công ty, theo đó đã cam kết làm việc tại Công ty 03 năm, nhưng chưa hết thời hạn thì anh Q đã nghỉ việc, do đó Công ty khởi kiện đòi bồi thường chi phí đào tạo đối với anh Ngô Xuân Q là đúng, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận đơn khởi kiện của Công ty là có căn cứ, cho nên Hội đồng xét xử phúc thẩm bác kháng cáo của anh Ngô Xuân Q và giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm. Do kháng cáo không được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận, cho nên anh Ngô Xuân Q phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật
* Toà án phúc thẩm tuyên:
1. Bác kháng cáo; giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm;
2. Anh Ngô Xuân Q phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự phúc thẩm, được trừ vàosố tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm mà anh Ngô Xuân Q đã nộp theo Biên lai thu tiền sốAA/2017/0006179 ngày 26/12/2018 của Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội.
5. Bản án số 03/2019/LĐPT ngày 28/03/2019 của TAND TP. Hà Nội về việc chấp về yêu cầu bồi thường chi phí đào tạo.
* Nội dung bản án:
Ngày 25/08/2013, Trung tâm y tế lao động - V (tổ chức tiền thân của Bệnh viện T) ký Hợp đồng làm việc số14/2013/HĐLĐ (loại hợp đồng không xác định thời hạn), tiếp nhận ông Dương Xuân T vào làm việc tại Trung tâm kể từ ngày 03/09/2013 với chức danh chuyên môn: Bác sĩ đa khoa, công tác tại Phòng Y học lao động. Ngày 21/10/2013, ông Dương Xuân T có đơn xin đi học lớp “Định hướng chuyên khoa ngành hồi sức cấp cứu” với cam kết “sau khi học xong sẽ về làm việc lâu dài chuyên môn đã được học theo quy định của Trung tâm”. Trung tâm đã có Quyết định cử cán bộ đi học số 515/QĐ-TCCB và ký Hợp đồng đào tạo số 515A/TTYT-TCHC ngày 03/11/2013 đối với ông T, theo đó Trung tâm cử ông T đi đào tạo tập trung trong thời gian 6 tháng kể từ ngày 04/11/2013. Nội dung hợp đồng quy định trong quá trình ông T đi học, Trung tâm có trách nhiệm chi trả toàn bộ chi phí đào tạo, tiền lương, tiền thưởng và các khoản phụ cấp khác cho ông T vàông T có nghĩa vụ sau khi hoàn thành khóa học phải làm việc cho Trung tâm trong thời gian tối thiểu là 05năm, trường hợp chưa hoàn thành thời gian làm việc cho Trung tâm thì ông T phải bồi thường chi phí đào tạo (bao gồm: Học phí, tiền lương, tiền thưởng và các khoản chi phí khác trong thời gian đi học) tương ứng với thời gian làm việc còn thiếu theo cam kết. Sau khi kết thúc khóa học, ông T có làm việc tại Trung tâm 03 tháng là tháng 5, 6, 7 năm 2014.
Ngày 13/09/2014, ông T có đơn xin đi học lớp “Bác sĩ chuyên khoa cấp I- chuyên ngành hồi sức cấp cứu” cũng với cam kết “sau khi học xong sẽ về làm việc lâu dài tại Trung tâm”. Do tin tưởng sau khi được nâng cao trình độ, ông T sẽ gắn bó lâu dài với Trung tâm và đóng góp cho sự phát triển chung của đơn vị nên Trung tâmđã có Quyết định số 507/QĐ-TTYT về việc cử ông T tham gia khóa học đào tạo Bác sĩ chuyên khoa cấp I -Chuyên ngành hồi sức cấp cứu tại Trường Đại học Y Hà Nội với thời hạn là 02 năm kể từ ngày 23/09/2014. Trung tâm và ông T có ký kết “Hợp đồng đào tạo” số 507A/TTYT-TCHC ngày 22/09/2014 với nội dung: Trong quá trình ông T đi học, Trung tâm có trách nhiệm chi trả toàn bộ chi phí đào tạo, tiền lương, tiền thưởngvà các khoản phụ cấp khác cho ông T và ông T có nghĩa vụ sau khi hoàn thành khóa học phải làm việc choTrung tâm trong thời gian tối thiểu là 05 năm, trường hợp chưa hoàn thành thời gian làm việc, ông T phải bồi hoàn chi phí đào tạo (bao gồm: Học phí, tiền lương, tiền thưởng và các khoản chi phí khác trong thời gian đi học).
Ngay sau khi hoàn thành khóa học thứ hai, ngày 29/09/2016, ông T làm “Đơn xin nghỉ không lương” với lý do giải quyết công việc cá nhân từ ngày 01/10/2016 đến ngày 31/03/2017. Ngày 10/02/2017, ông T làm “Đơn xin nghỉ thôi việc” gửi Bệnh viện với lý do gia đình gặp khó khăn vướng mắc không thể tiếp tục công tác. Ngày14/04/2017, Bệnh viện đã có Quyết định số 396/QĐ-BV về việc chấm dứt Hợp đồng làm việc với ông Dương Xuân T. Ngày 15/06/2017 và ngày 05/07/2017, Bệnh viện đã có Thông báo về việc giải quyết các chế độ liên quan đến việc chấm dứt hợp đồng lao động và bồi thường chi phí đào tạo gửi ông Dương Xuân T nhưng ông Tkhông có phản hồi khi nhận thông báo trên.
Ngày 25/09/2017, Bệnh viện có đơn đề nghị hòa giải gửi Phòng lao động thương binh xã hội quận ThanhXuân. Ông T được triệu tập hợp lệ hai lần nhưng vắng mặt không có lý do nên hòa giải viên đã lập biên bảnhòa giải không thành và hướng dẫn các bên có quyền khởi kiện đến Tòa án. Ngày 19/01/2018, Bệnh viện T có đơn khởi kiện ông T đến Tòa án.
Bệnh viện T khởi kiện đề nghị Tòa án buộc ông Dương Xuân T phải bồi thường toàn bộ chi phí đào tạo do viphạm cam kết về thời gian làm việc tối thiểu cho Bệnh viện sau khi hoàn thành khóa học, bao gồm: Chi phí đào tạo theo Hợp đồng đào tạo số 515A/TTYT-TCHC ngày 03/11/2013 là 40.329.978 đồng (gồm: Chi phí đào tạo: 9.000.000 đồng, tiền lương, tiền thưởng trong thời gian đi học: 27.049.578 đồng, chi phí đóng BHXH, BHTN, BHYT: 4.280.400 đồng); Chi phí đào tạo theo hợp đồng đào tạo số 507A/TTYT-TCHC ngày 22/09/2014 là 179.494.500 đồng (gồm: Chi phí ôn thi: 1.300.000 đồng, chi phí đào tạo lớp bác sĩ chuyên khoa cấp I: 25.200.000 đồng, chi phí tiền lương, thưởng, phụ cấp và các khoản khác trong thời gian ôn thi và trongthời gian học: 133.029.500 đồng, chi phí đóng BHXH, BHTN, BHYT: 19.965.000 đồng).
Ngày 09/11/2018 nguyên đơn có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án phúc thẩm buộc ông T phải bồi thường khoản tiền lương, tiền thưởng, tiền phụ cấp và các khoản đóng bảo hiểm trong thời gian ông T tham gia 02 khóa họclà 180.291.400 đồng.
* Toà án sơ thẩm tuyên:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Bệnh viện T đối với ông Dương Xuân T về việc yêu cầu bồi thường chi phí đào tạo.
2. Buộc ông Dương Xuân T phải bồi thường cho Bệnh viện T chi phí đào tạo bao gồm học phí và các khoản chi phí khác phục vụ cho khóa học là 33.725.000 đồng.
3. Bác yêu cầu bồi thường khoản tiền lương, tiền thưởng, tiền bổ sung thu nhập và tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong thời gian đi học là 180.291.480 đồng của Bệnh viện T đối với ông Dương Xuân T.
* Tòa án phúc thẩm nhận định:
Hội đồng xét xử xét thấy: Ngày 25/08/2013, Trung tâm y tế lao động - V (tổ chức tiền thân của Bệnh viện T) ký “Hợp đồng làm việc” không xác định thời hạn với ông Dương Xuân T, tuyển dụng ông T vào làm việc tại Trung tâm kể từ ngày 03/09/2013 với chức danh chuyên môn là bác sỹ đa khoa, làm việc tại phòng Y học lao động - Kế hoạch tổng hợp, được hưởng mức lương chính theo hệ số là 3,00.
Sau khi vào làm việc tại Trung tâm, ông T có đơn xin đi học, được Trung tâm chấp thuận và có quyết định cử ông T đi học khóa học “Định hướng chuyên khoa hồi sức cấp cứu” trong thời gian 06 tháng và khóa học “Bác sĩ chuyên khoa cấp I- chuyên ngành hồi sức cấp cứu” trong thời gian 02 năm. Khi cử ông T đi học, giữa Trung tâm và ông Dương Xuân T có ký 02 hợp đồng đào tạo số 515A/TTYT-TCHC và số 507A/TTYT- TCHC. Theo nội dung hợp đồng, Trung tâm có trách nhiệm thanh toán kinh phí đào tạo để thực hiện chương trình đào tạo của ông T và ông T có cam kết sau khi hoàn thành mỗi khóa học, phải làm việc cho Trung tâm trong thời gian tối thiểu là 05 năm.
Kết thúc khóa học thứ nhất, ông T về làm việc tại Trung tâm 03 tháng, sau đó tiếp tục tham gia khóa học thứ 2. Ngay sau khi kết thúc khóa học thứ 2, ông T không về làm việc cho Trung tâm mà có đơn xin nghỉ không lương trong thời gian 06 tháng và sau đó có đơn xin thôi việc.
Như vậy, căn cứ thỏa thuận của các bên trong “ hợp đồng đào tạo” về thời gian làm việc tối thiểu của ông T tại Trung tâm y tế lao động - V sau khi kết thúc 02 khóa học thì ông T đã vi phạm cam kết. Do đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bồi thường chi phí đào tạo đối với ông T là có căn cứ.
Tuy nhiên, xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn về bồi thường chi phí đào tạo đối với ông Dương Xuân T, Hội đồng xét xử thấy: Trước hết xét về tư cách pháp nhân và cơ chế hoạt động của Trung tâm Y tế lao động - V ( Nay là Bệnh viện than khoáng sản ): Căn cứ Quyết định số 345/QĐ-TTG ngày 26/12/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Tập đoàn than khoáng sản Việt Nam, Nghị định 212/NĐ- CP ngày 19/12/2013 của Chính Phủ về việc ban hành “Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tập đoàn công nghiệp T Việt Nam”, Quyết định số 989/QĐ-TTg ngày 25/06/2010 của Thủ tướng Chính Phủ về việc chuyển Công ty mẹ -Tập đoàn T thành Công ty TNHH một thành viên thuộc sở hữu Nhà nước thì Tập đoàn T Việt Nam là Tập đoàn kinh tế do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ, chưa thực hiện cổ phần hóa, Trung tâm Y tế lao động - V là đơn vị sự nghiệp thuộc Tập đoàn kinh tế Nhà nước nên theo Quyết định 22/2015/QĐ -TTg ngày 22/06/2015 của Thủ tướng Chính phủ, Bệnh viện T là đơn vị sự nghiệp công lập. Ngoài ra, tại Quyết định số 9438/QĐ-BTC ngày 21/10/2014 của Bộ công thương “về việc chuyển Trung tâm y tế lao động -V thành Bệnh viện T” quy định: “Bệnh viện T là đơn vị sự nghiệp y tế, thành viên của Tập đoàn T Việt Nam (TKV), có tư cách pháp nhân đầy đủ, chịu sự chỉ đạo các mặt chuyên môn của Bộ y tế, có chức năng tổ chức khám chữa bệnh cho người lao động và mọi đối tượng người bệnh, thực hiện chức năng tham mưu về công tác y tế cho Tập đoàn, đào tạo và tham gia đào tạo nhân lực y tế, tham gia các chương trình mục tiêu quốc gia về lĩnh vực y tế, nghiên cứu khoa học, triển khai các ứng dụng khoa học….Về kinh phí hoạt động: Bệnh viện T được tự chủ về kinh phí hoạt động và TKV cấp một phần kinh phí hoạt động thường xuyên cho Bệnh viện…”. Như vậy, Bệnh viện T là tổ chức do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập, có tư cách pháp nhân, được giao thực hiện các nhiệm vụ về chuyên môn y tế của Tập đoàn T và thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ công. Ông Dương Xuân T được Bệnh viện T tuyển dụng theo vị trí việc làm là bác sỹ đa khoa, làm việc tại Bệnh viện theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của Bệnh viện theo ngạch bậc lương đối với viên chức do Nhà nước quy định tại Nghị định 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính Phủ nên ông T là viên chức làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập.
Quá trình tuyển dụng, ký kết hợp đồng làm việc, cử đi đào tạo đối với ông Dương Xuân T của Trung tâm y tế lao động - V được thực hiện theo quy định của Luật viên chức và các văn bản liên quan. Cụ thể, khi tuyển dụng ông T vào làm việc, Trung tâm áp dụng hình thức xét tuyển, sau đó ký hợp đồng làm việc với ông T theo quy định tại Điều 26 Luật viên chức và áp dụng loại “Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn” ban hành kèm Thông tư số 15/2012/TT-BNV ngày 25/12/2012, hai bên không giao kết Hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 23 Bộ luật lao động; Về quyền lợi, theo hợp đồng làm việc, ông T được hưởng mức lương cơ bản theo hệ số trong thang bảng lương được quy định đối với ngạch viên chức loại A1 bậc 3 quy định tại Nghị định 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính Phủ quy định“về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang”. Ngoài ra, tại điều 5 của hợp đồng có ghi “Những vấn đề về lao động không được ghi trong hợp đồng này thì áp dụng quy định của Pháp luật lao động, luật viên chức. Khi cử ông T đi đào tạo, Trung tâm có quyết định cử cán bộ đi học. Ngày 27/02/2017, ông T có đơn xin thôi việc, Trung tâm đã ra quyết định về việc chấm dứt hợp đồng làm việc đối với ông T. Như vậy có thể thấy, quan hệ lao động được xác lập giữa Trung tâm y tế lao động – V (nay là Bệnh viện T) với ông T là quan hệ lao động giữa người sử dụng lao động với viên chức làm công tác chuyên môn. Do đó, cần căn cứ các quy định của Luật viên chức và các văn bản liên quan để xác định trách nhiệm bồi thường của viên chức đối với đơn vị sử dụng lao động trong trường hợp viên chức có vi phạm.
Việc bồi thường chi phí đào tạo của ông T đối với Bệnh viện T được thực hiện theo quy định tại Khoản 3 Điều 35 Luật viên chức và các văn bản liên quan. Theo quy định tại Điều 7, Điều 8 Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/09/2017 của Chính phủ về “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức, viên chức” sửa đổi, bổ sung Điều 36 Nghị định số 29/2012/NĐ-CP và Điều 17 Thông tư số 15/2012/TT-BNV ngày 25/12/2012 của Bộ nội vụ thì “Chi phí đền bù bao gồm học phí và các khoản chi phí khác phục vụ cho khóa học, không tính lương và các khoản phụ cấp nếu có”.
Như vậy, kháng cáo của nguyên đơn yêu cầu ông T đền bù chi phí đào tạo bao gồm cả tiền lương, tiền thưởng, tiền phụ cấp, tiền đóng bảo hiểm đã thanh toán cho ông T trong thời gian ông T đi học là không phù hợp với quy định của Pháp luật. Mặc dù giữa ông T và Trung tâm có thỏa thuận trong “Hợp đồng đào tạo” là ông T phải bồi hoàn cả tiền lương, tiền thưởng, tuy nhiên do thỏa thuận này không phù hợp với quy định của Pháp luật nên không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.
Từ những phân tích trên, thấy rằng cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu bồi thường khoản tiền lương, tiền thưởng, tiền bổ sung thu nhập và các khoản đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong thời gian đi học của Bệnh viện T đối với ông Dương Xuân T với tổng số tiền 180.291.480 đồng là có căn cứ. Tại cấp phúc thẩm các bên đương sự không xuất trình thêm tài liệu chứng cứ nào mới. Do vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên Quyết định của bản án sơ thẩm.
* Toà án phúc thẩm tuyên:
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Bệnh viện T, giữ nguyên bản án sơ thẩm cụ thể như sau: Buộc ông Dương Xuân T phải bồi thường cho Bệnh viện T chi phí đào tạo bao gồm học phí và các khoản chi phí khác phục vụ cho khóa học là 33.725.000 đồng.
2. Bác yêu cầu bồi thường khoản tiền lương, tiền thưởng, tiền bổ sung thu nhập và tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong thời gian đi học là 180.291.480 đồng của Bệnh viện Tđối với ông Dương Xuân T.
6. Bản án số 1156/2019/LĐ-PT ngày 29/11/2019 của TAND TP. Hồ Chí Minh về việc tranh chấp về bồi thường thiệt hại chi phí đào tạo
* Nội dung bản án:
Công ty Trách nhiệm hữu hạn PVN và bà Trần Ngọc Kim H (gọi tắt bà H) đã ký 03 hợp đồng lao động, cụ thể:
Ngày 15/8/2012 ký hợp đồng lao động số 346/HĐ-2012, loại hợp đồng xác định thời hạn 01 năm từ ngày 15/8/2012 đến ngày 14/8/2013, vị trí công việc là Trợ lý Trưởng phòng nhân sự, mức lương là 25.000.000 đồng/tháng.
Ngày 15/8/2013 ký hợp đồng lao động số 317/HĐ-2013, loại hợp đồng xác định thời hạn 03 năm từ ngày15/8/2013 đến ngày14/8/2016, vị trí công việc là Trợ lý Trưởng phòng nhân sự, mức lương là 26.000.000 đồng/tháng.
Ngày 15/8/2016 hai bên tiếp tục ký hợp đồng lao động số 189/HĐ-2016, loại hợp đồng không xác định thời hạn, vị trí công việc là Trợ lý Trưởng phòng nhân sự, mức lương là 41.000.000 đồng/tháng. Ngày 01/4/2017bà H là Trưởng phòng hành chính nhân sự cho đến khi nghỉ việc.
Tháng 11/2017, bà H tự đăng ký theo học chương trình Thạc sĩ Quản trị Nguồn nhân lực, mức học phí là 275.835.000 đồng nhưng bà H yêu cầu Viện đào tạo QT xuất hoá đơn cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn PVN, bà H tự lập các phiếu đề xuất ngày 19/12/2017 và ngày 10/4/2018 để Công ty Trách nhiệm hữu hạn PVN thanh toán tiền học phí trên.
Ngày 17/9/2018, bà H làm đơn xin nghỉ việc. Ngày 16/11/2018, Công ty Trách nhiệm hữu hạn PVN có quyết định số 01924/QĐTV-2018 cho bà H thôi việc theo nguyện vọng, lương và các khoản liên quan được trả chođến hết ngày 16/11/2018. Sau khi nghỉ việc, bà H không thanh toán lại số tiền học phí trên. Khi bà H đảm nhiệm chức vụ Trưởng phòng Hành chính nhân sự đã đưa ra những đề xuất gây nhầm lẫn nhằm mục đích hưởng lợi từ việc theo học chương trình Thạc sĩ Quản trị Nguồn nhân lực. Nên đề nghị Toà án buộc bà H phải có nghĩa vụ hoàn trả số tiền học phí 275.835.000 đồng mà Công ty Trách nhiệm hữu hạn PVN đã đóng.
Trường hợp bà H có thiện chí giải quyết vụ án, Công ty Trách nhiệm hữu hạn PVN đồng ý nhận lại số tiền 200.000.000 đồng để kết thúc vụ án.
Ngày 26/8/2019 người đại diện theo pháp luật của Công ty Trách nhiệm hữu hạn PVN là ông Chauhan Anhun có đơn kháng cáo không đồng ý quyết định của bản án sơ thẩm với lý do bà Trần Ngọc Kim H vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng lao động và quy chế đào tạo do Công ty ban hành nên phải trả lại số tiền do đơn vị đã ứng để đóng học phí cho bà là 275.835.000 đồng.
* Toà án sơ thẩm tuyên:
1. Không chấp nhận yêu cầu của Công ty Trách nhiệm Hữu hạn PVN đòi bà Trần Ngọc Kim H phải cónghĩa vụ hoàn trả số tiền học phí 275.835.000 đ (Hai trăm bảy mươi lăm triệu, tám trăm ba mươi lămnghìn đồng ).
2. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Trần Ngọc Kim H trả lại Công ty Trách nhiệm hữu hạn PVN số tiền 50.000.000 đ (Năm mươi triệu đồng). Thi hành ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật, tại Chi cục thi hành án Dân sự có thẩm quyền.
* Tòa án phúc thẩm nhận định:
Xem xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:
- Bà Trần Ngọc Kim H vào làm việc tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn PVN theo các bản hợp đồng lao động sau đây:
- Hợp đồng lao động số 346/HĐ-2012, ký ngày 15/8/2012 với thời hạn 01 năm từ 15/8/2012 đến 14/8/2013.
- Hợp đồng lao động số 317/HĐ-2013, ký ngày 15/8/2013 với thời hạn 03 năm từ 15/8/2013 đến 14/8/2016.
- Ngày 18/6/2016 hai bên ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn số 189/HĐ-2016. Vị trí công việc của bà H là Trợ lý Trưởng phòng nhân sự. Mức lương là 41.000.000 đồng/tháng. Theo bản phụ kiện hợp đồng lao động thì từ ngày 01/4/2017 bà H được bổ nhiệm làm Trưởng phòng Hành chính - Nhân sự của Công ty Trách nhiệm hữu hạn PVN cho đến khi nghỉ việc.
Vào tháng 11/2017 bà Trần Ngọc Kim H tự đăng ký theo học chương trình đào tạo Thạc sĩ Quản trị Nguồn nhân lực tại Viện đào tạo QT - Trường Đại học K Thành phố Hồ Chí Minh, tổng số tiền học phí của toàn khoá học là 275.835.000 đồng, căn cứ các phiếu đề xuất của bà H, Công ty Trách nhiệm hữu hạn PVN đã xuất tiền để đóng học phí cho bị đơn theo hai (02) đợt, cụ thể:
- Hoá đơn số 0011443, ngày 12/11/2017 với số tiền là 33.300.000 đồng.
- Hoá đơn số 0000443, ngày 13/4/2018 với số tiền là 242.535.000 đồng. Khi khoá học tại Viện đào tạo QT nguồn nhân lực chưa kết thúc, vào ngày 17/9/2018, bà Trần Ngọc Kim H nộp đơn xin nghỉ việc tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn PVN. Ngày 16/11/2018 lãnh đạo Công ty có Quyết định số 01924/QĐTV-2018 giải quyết cho bà H được thôi việc theo nguyện vọng. Sau khi bà H bàn giao công việc Công ty phát hiện bà H đã vi phạm quy chế đào tạọ về thời gian phục vụ có thời hạn sau khi kết thúc khóa học nên yêu cầu bà Hoàng phải hoàn trả toàn bộ số tiền mà Công ty đã ứng để đóng học phí thay cho bà dẫn đến tranh chấp phát sinh.
Xét thấy, trước khi bà Trần Ngọc Kim H đăng ký theo học chương trình đào tạo Thạc sĩ Quản trị Nguồn nhân lực thì vào ngày 01/7/2017 Công ty Trách nhiệm hữu hạn PVN đã ban hành quy chế số 017/QCĐT về việc: Đào tạo - Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho nhân viên của Công ty. Theo quy chế này thì đối tượng được đào tạo, bồi dưỡng phải là nhân viên Công ty làm việc theo loại hợp đồng lao động không xác định thời hạn và phải có cam kết phục vụ đơn vị trong thời gian nhất định. Căn cứ theo vị trí công việc, bà H đủ điều kiện tham gia khoá học được Công ty tài trợ tiền học phí và phải phục vụ cho Công ty trong thời gian 36 tháng kể từ sau khi kết thúc khoá học như ghi nhận tại Điều 7 của quy chế này. Ngoài ra, tại điểm d Khoản 1 Điều 9 của Quy chế có ghi: “Nhân viên đang trong thời gian cử đi đào tạo - bồi dưỡng mà chấm dứt hợp đồng lao động đều phải bồi thường cho Công ty 100% các khoản chi phí đào tạo (bao gồm cả chi phí đi lại) tính theo từng người được đào tạo”.
Trình bày tại phiên toà phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xác định: Bản quy chế số 017/QCĐT, ngày 01/7/2017 của Công ty có nội dung tương tự như bản quy chế được ban hành tháng 02/2012; gồm 04 Chương và 09 Điều đã được nhân viên của toàn Công ty thông qua, thảo luận; Phòng Hành chính - Nhân sự do bà Trần Ngọc Kim H đảm trách ở thời điểm đó có trách nhiệm công khai quy chế bằng văn bản đến người lao động biết sau khi được ký ban hành.
Ràng buộc bởi quy chế trên, tham dự khoá học từ tháng 11/2017 nhưng đến ngày 17/9/2018 bà Trần Ngọc Kim H nộp đơn xin nghỉ việc và được Công ty Trách nhiệm hữu hạn PVN chấp thuận cho thôi việc vào ngày 16/11/2018. Thời điểm này, chương trình đào tạo Thạc sĩ Quản trị Nguồn nhân lực của khoá học chưa kết thúc; thời gian cam kết phục vụ sau ba năm không có. Như vậy, bà H đã vi phạm điểm d Khoản 1 Điều 9 của bản quy chế nên phải chịu trách nhiệm bồi thường 100% chi phí đào tạo mà Công ty đã nộp cho bà H như chế tài thể hiện tại Chương III bản quy chế về xử lý vi phạm hợp đồng đào tạo bồi dưỡng.
Trình bày tại bản khai ngày 20/6/2019 và đơn tự khai không ghi ngày (bút lục từ số 19 đến 21) bà H cho biết: Công ty chấp nhận thanh toán chi phí khoá đào tạo chuyên môn nhân sự cho bà mà không có bất kỳ yêu cầu nào đối với bà về thoả thuận đào tạo theo quy trình. Bà vô cùng biết ơn Công ty về sự đãi ngộ và cũng là phần thưởng Công ty tặng cho bà sau nhiều năm cống hiến. Cũng theo bà H, vào tháng 11/2017 Tổng giám đốc cũ của Công ty là ông Arif Khan đã đồng ý tài trợ toàn bộ tiền học phí cho bà mà không đưa ra bất cứ điều kiện nào và không ký thoả thuận đào tạo giữa các bên để quy trách nhiệm.
Tại phiên toà phúc thẩm, bà H không thừa nhận đã được thông qua Bản quy chế số 017/QC-ĐT, ngày 01/7/2017 vì với tư cách Trưởng phòng Nhân sự bà không được mời tham gia soạn thảo. Mặc dù có lời khai và trình bày như trên nhưng bị đơn không cung cấp được tài liệu chứng cứ để chứng minh cho việc Tổng Giám đốc cũ là ông Arif Khan đã có văn bản tự nguyện tặng cho bà khoản tiền Công ty đã ứng để đóng học phí cho bà. Hơn nữa, với chức danh là Trưởng phòng Hành chính - Nhân sự từ tháng 4/2017 cho đến ngày được Công ty cho thôi việc (tháng 11/2018), bà H khai không biết gì về Bản quy chế số 017/QC- ĐT, ngày 01/7/2017 của Công ty là khó thuyết phục, bởi lẽ bà là người nắm giữ cương vị lãnh đạo tại bộ phận nhân sự và là một trong những thành viên của Công ty được hưởng lợi từ quy chế này. Một điểm đáng lưu ý khác là tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ ngày 04/7/2019; lời khai tại các biên bản hoà giải và tại phiên toà sơ thẩm; bà Trần Ngọc Kim H không có ý kiến gì về bản quy chế số 017/QC-ĐT, ngày 01/7/2017 mà Công ty xuất trình. Kết thúc phần hỏi tại phiên toà phúc thẩm bà H xác nhận ở thời điểm hiện tại bà đã hoàn thành khoá đào tạo Thạc sĩ chuyên ngành, đang chờ xét kết quả tốt nghiệp và hiện đang làm việc tại đơn vị khác với mức lương hàng tháng khoảng 60.000.000 đồng.
Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Việc Công ty Trách nhiệm hữu hạn PVN khởi kiện yêu cầu bị đơn bà Trần Ngọc Kim H phải có trách nhiệm hoàn trả lại chi phí đào tạo cho Công ty là cơ sở để xem xét. Bởi lẽ Bản quy chế đào tạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ được phổ biến đến người lao động của Công ty (kể cả bản quy chế năm 2011) đều xác định: Nhân viên đủ điều kiện để được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành bằng nguồn tiền tài trợ của Công ty phải có thời gian phục vụ nhất định sau khi kết thúc khóa học (đối với bà H là 36 tháng). Nếu nhân viên nghỉ việc, từ chức trong thời gian làm việc sau khi kết thúc khoá học phải hoàn trả lại Công ty chi phí đào tạo theo tỷ lệ tương ứng. Với viện dẫn trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy bị đơn bà Trần Ngọc Kim H đang trong thời gian được Công ty cử đi đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ và khi khóa đào tạo Thạc sĩ chuyên ngành chưa kết thúc thì bà H đã nộp đơn xin nghỉ việc vì lý do cá nhân. Như vậy, bà H đã vi phạm Điều 7 về thời gian, yêu cầu phục vụ và điểm d Khoản 1 Điều 9 của Bản quy chế về Bồi thường chi phí đào tạo của Công ty Trách nhiệm hữu hạn PVN, nên phải chịu trách nhiệm hoàn trả 100% chi phí đào tạo.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn không đồng ý phương án hòa giải mà nguyên đơn đưa ra, vì thế cần chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, sửa bản án lao động sơ thẩm của Tòa án nhấn dân Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh; buộc bị đơn bà Trần Ngọc Kim H phải hoàn trả cho nguyên đơn - Công ty Trách nhiệm hữu hạn PVN toàn bộ chi phí đào tạo do Công ty đã nộp thay cho bà tại Viện đào tạo QT - Trường Đại học K Thành phố Hồ Chí Minh, số tiền đã nộp theo biên lai thu tiền là 275.835.000 đồng như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên toà.
* Toà án phúc thẩm tuyên:
1. Đơn kháng cáo của nguyên đơn - Công ty Trách nhiệm hữu hạn PVN làm trong thời hạn luật định vànguyên đơn đã nộp tạm ứng án phí kháng cáo theo quy định là hợp lệ nên được chấp nhận xem xét theotrình tự phúc thẩm.
2. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn. Sửa bản án lao động sơ thẩm số 48/2019/LĐ-ST, ngày21/8/2019 của Toà án nhân dân Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh như sau:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn PVN. Buộc bị đơn bà Trần Ngọc Kim H phải có trách nhiệm hoàn trả cho nguyên đơn
- Công ty Trách nhiệm hữu hạn PVN khoản tiền chi phí đào tạo số tiền 0 là 275.835.000 đ (Hai trăm bảyn mươi lăm triệu, tám trăm ba mươi lăm nghìn đồng).
7. Bản án số 04/2022/LĐ-PT ngày 22/04/2022 của TAND tỉnh Phú Yên về việc yêu cầu hoàn trả chi phí đào tạo, tiền thưởng và bồi thường thiệt hại do vi phạm cam kết.
* Nội dung bản án:
Ngày 10/3/2016, Công ty trách nhiệm hữu hạn công nghiệp K (gọi tắt là Công ty) tuyển dụng và ký kết hợp đồng lao động tuyển dụng ông Đặng Trường A vào làm việc tại công ty thời hạn 3 năm. Ngày 26/3/2016, Công ty và ông A ký bản cam kết sau đào tạo, tuy nhiên bản cam kết không nêu rõ thời gian đào tạo, kinh phí đào tạo. Sau đó, ông A được cử đi đào tạo để nhận chứng chỉ Trưởng ca vận hành chuyên ngành điện đồngphát. Công ty đã cử ông A tham gia 02 khóa đào tạo, sát hạch đặc biệt do Trung tâm điều độ hệ thống điệnquốc gia tổ chức, cụ thể:
- Lần đầu: Từ ngày 29/3/2016 đến ngày 31/3/2016 tại thành phố Q, tỉnh B nhưng ông A trượt kỳ thi này.
- Lần hai: Từ ngày 10/10/2016 đến ngày 13/10/2016 tại thành phố N, tỉnh K và ông A đậu kỳ thi này.
Ngoài ra, ông A còn tham gia quá trình đào tạo lý thuyết tập trung do Công ty tổ chức từ tháng 6/2016 đếntháng 11/2017. Ngày 02/01/2019, ông A ký phụ lục hợp đồng lao động 2019 tiếp tục làm việc đến ngày 21/01/2019 ông A nhận thưởng nội bộ và cam kết tiếp tục làm việc 01 năm tính từ ngày 01/01/2019, nếu nghỉviệc phải hoàn trả tiền thưởng.
Trong các ngày 15/02/2019 và 21/02/2019, Công ty đã làm việc với ông A để thỏa thuận ký hợp đồng lao động mới nhưng ông A không đồng ý. Đến ngày 28/02/2019, Công ty và ông A có buổi làm việc, lập thành văn bản nhưng hai bên vẫn không đi đến thống nhất để ký hợp đồng lao động mới. Ngày 01/3/2019 ông A tự ý nghỉ việc không thông báo cho Công ty biết. Công ty nhiều lần thông báo, giải thích đề nghị ông A quay lại làm việc, nếu không phải hoàn trả chi phí đào tạo và các khoản khác do vi phạm cam kết nhưng ông A không hợp tác. Nay, Công ty khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông A hoàn trả toàn bộ chi phí đào tạo và các khoản chi phí khác do vi phạm cam kết với số tiền 270.267.351đ, cụ thể:
Tiền thưởng đặc biệt 2018: 2.880.000đ; Tiền lương (từ tháng 3/2016 đến tháng 02/2017): 61.288.196đ; Tiền bảo hiểm xã hội, y tế, thất nghiệp: 9.988.000đ; Trợ cấp tiền ăn: 365.500đ; Tiền phí công đoàn 2%: 908.000đ;
Tiền bảo hiểm tai nạn: 576.124đ; Chi phí khám sức khỏe: 356.000đ; Chi phí đào tạo tập trung tại Công ty: 13.250.000đ; Tiền ăn, ở, đi lại tại Quy Nhơn: 1.452.879đ; Tiền ăn, ở, đi lại tại Nha Trang: 2.355.152đ; Tiền lệ phí thi: 50.000.000đ; Đồng phục, giày bảo hộ: 769.500đ; Chi phí thiệt hại: 126.078.000đ.
Đối với việc ông A tự ý nghỉ việc vì cho rằng thời hạn trong hợp đồng lao động đã hết, Công ty không yêu cầu xem xét trách nhiệm và giải quyết bồi thường theo pháp luật. Đơn phản tố ngày 18/4/2021 và quá trình giải quyết vụ án, bị đơn Đặng Trường A trình bày: Tôi thừa nhận có ký hợp đồng lao động ngày 10/3/2016, Bản cam kết sau đào tạo ngày 26/3/2016, các phụ lục hợp đồng lao động ngày 14/01/2017, ngày 02/01/2018, ngày 02/01/2019 và thỏa thuận tiền thưởng các năm 2016, 2017, 2018 và cam kết tiền thưởng ngày 21/01/2019. Đốivới yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn tôi không đồng ý vì: Căn cứ Điều 190 của Bộ luật lao động năm 2019 thì thời hiệu khởi kiện đã hết do đó tôi đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiệncủa nguyên đơn đồng thời yêu cầu giải quyết buộc Công ty trả tiền lương + tiền trợ cấp tăng ca tháng 02/2019 thành tiền 6.734.000đ.
Ngày 29/9/2021, nguyên đơn công ty TNHH công nghiệp K có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm yêu cầu chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn bồi thường tổng chi phí đào tạo là 144.189.351đ. Tại đơn kháng cáo bổ sung ngày 24/9/2021, nguyên đơn yêu cầu bị đơn hoàn trả tiền lương và tiền lương người dạy mà KCP chi trả với tổng số tiền 74.538.196đ, và giữ nguyên các nội dung khác của bản án.
Ngày 14/10/2021, bị đơn ông Đặng Trường A kháng cáo quá hạn. Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhậnkháng cáo quá hạn của bị đơn vì lý do kháng cáo quá hạn không chính đáng.
* Toà án sơ thẩm tuyên:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bị đơn Đặng Trường A phải hoàn trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Công nghiệp K tổng số tiền 57.697.648đ gồm các khoản chi phí đào tạo,tiền lương và tiền thưởng đặc biệt năm 2018. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngàycó đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn về hoàn trả chi phí đào tạo và tiền lương với tổng số tiền 73.528.579đ.
3. Không chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn về áp dụng thời hiệu đình chỉ giải quyết vụ án.
4. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện với tổng số tiền 139.041.124 đồng của nguyên đơn.
5. Đình chỉ một phần yêu cầu phản tố buộc Công ty trả tiền lương + tiền trợ cấp tăng ca tháng 02/2019 thành tiền 6.734.000đ của bị đơn.
* Tòa án phúc thẩm nhận định:
Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn:
- Ngày 26/3/2016, bị đơn Đặng Trường A tự nguyện ký bản cam kết đaò tạo với công ty TNHH công nghiệp K Việt Nam nôi dung cam kết phục vụ lâu dài tối thiểu 5 năm, thực hiện công việc theo sự phân công, điều động của công ty. Nếu bị đơn không thực hiện đúng cam kết thì phải chịu bồi hoàn cho Công ty về toàn bộ chi phí đào tạo, tiền lương, lương tăng thêm, các khoản phụ cấp khác trong thời gian đào tạo tập trung cũng như thời gian không làm việc tại Công ty. Ngày 01/3/2019, bị đơn nghỉ việc là vi phạm cam kết nên phải chịu trách nhiệm hoàn trả các chi phí đào tạo cho Công ty theo cam kết đã ký.
- Xét các khoản yêu cầu hoàn trả: Theo đơn kháng cáo bổ sung ngày 21/9/2021, nguyên đơn yêu cầu chấp nhận yêu cầu bị đơn hoàn trả tiền lương từ tháng 3/2016 đến tháng 02/2017là 61.288.196đ và khoản tiền lương chi trả ông Châu Quang S đào tạo nội bộ với số tiền 13.250.000đ.
- Đối với khoản tiền lương chi trả ông Châu Quang S đào tạo nội bộ với số tiền 13.250.000đ. Tại phiên tòa nguyên đơn xin rút yêu cầu nên HĐXX không xem xét.
Đối với khoản tiền lương (từ tháng 3/2016 đến tháng 02/2017): Căn cứ kế hoạch số 313/KH-HRD ngày 31/3/2016 của công ty TNHH công nghiệp K Viêt Nam thì trong thời gian 1 năm từ 01/4/2016 đến 31/3/2017 ông Đăng Trương A tham gia đào tạo thực hành cho trưởng ca vận hành nhà máy điện sinh khối , đào tạo thực tế tai Nhà máy điện sinh khôi K kèm theo chương trình đào tạo. Căn cứ giấy xác nhận về tiền lương được chi trả bởi công ty K cho ông Đăng Trương A được xác nhận bởi Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện S từ thi tháng 3/2016 đến tháng 02/2017 công ty KCP Việt Nam đã chi trả cho bị đơn khoản tiền lương là 43.964.000đ trong thời gian đào tạo nội bộ, theo bản cam kết sau đào tạo lập ngày 26/3/2016 thể hiện “Nếu không thực hiện đúng các nội dung cam kết, tôi sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm và bồi hoàn theo yêu cầu của công ty về toàn bộ chi phí của quá trình đào tạo kể cả tiền lương, lương tăng thêm, các khoản phụ cấp khác (nếu có) trong khoản thời gian đi đào tạo tập trung và thời gian không làm việc tại đơn vị”. Do đó cần chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn buộc bị đơn phải hoàn trả khoản tiền lương 43.964.000đ.
Đối với các khoản khác nguyên đơn đã rút yêu cầu và không kháng cáo HĐXX không xem xét và giữ nguyên theo quyết định bản án sơ thẩm.
Từ những nhận định trên cần chấp nhận quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên tòa chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, buộc bị đơn phải hoàn trả cho nguyên đơn thêm khoản tiền 43.964.000đ chi phí đào tạo.
* Toà án phúc thẩm tuyên:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu của Công ty trách nhiệm hữu hạn Công nghiệp K theo đơn khởi kiện ngày 22/10/2020. Buộc ông Đặng Trường A phải hoàn trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Công nghiệp K tổng số tiền 100.652.031đ ( Một trăm triệu sáu trăm năm mươi hai ngàn không trăm ba mốt đồng) về khoản chi phí đào tạo và tiền lương. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn về hoàn trả chi phí đào tạo và tiền lương với tổng số tiền 30.574.196đ.
3. Không chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn về áp dụng thời hiệu đình chỉ giải quyết vụ án.
4. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện với tổng số tiền 139.041.124 đồng của nguyên đơn.
5. Đình chỉ một phần yêu cầu phản tố buộc Công ty trả tiền lương + tiền trợ cấp tăng ca tháng 02/2019thành tiền 6.734.000đ của bị đơn.
6. Hậu quả của việc đình chỉ được quy định tại khoản 1 Điều 218 của Bộ luật tố tụng dân sự.
8. Bản án 23/2017/LĐ-PT ngày 29/09/2017 về tranh chấp trợ cấp thôi việc và chi phí đào tạo nghề.
* Nội dung bản án:
Nguyên đơn ông Ngô Văn L trình bày: Ông làm việc tại xưởng sản xuất của Công ty cổ phần D (sau đây gọi tắt là Công ty D) từ ngày 10/6/1997 theo hợp đồng lao động số 11/97 ngày 09/6/1997, mức lương khi mới vào làm hệ số 1,46, mức lương đến thời điểm nghỉ việc ngày 30/12/2015 là 5.692.000đ/tháng và được hưởng các chế độ khác như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp theo quy định. Trong quá trình làm việc tại Công ty D, ông không có sai phạm gì.
Tháng 9/2009, ông xin đi học lớp đại học dược và được Công ty D đồng ý. Công ty D yêu cầu ông phải viết bản cam kết thực hiện các quy định do Công ty D đề ra, nếu không thực hiện hoặc thực hiện trái với cam kết, ông bồi hoàn tất cả các chi phí (nếu có) mà Công ty D đã hỗ trợ cho ông.
Ngày 01/11/2015, ông làm đơn xin nghỉ việc và được Công ty D đồng ý. Ngày 22/12/2015, Công ty D ban hành Quyết định số 357/QĐ-CTCPD về việc giải quyết nghỉ việc đối với ông từ ngày 01/01/2016. Theo danh sách chi tiền trợ cấp nghỉ việc, Công ty D thanh toán tiền trợ cấp thôi việc cho ông theo mức lương 3.100.000đ là không đúng với mức lương trước khi ông nghỉ việc nên đến nay ông chưa nhận tiền trợ cấp thôi việc.
Ông khởi kiện, đề nghị Tòa án giải quyết buộc Công ty D thanh toán tiền trợ cấp thôi việc cho ông (tính theo mức lương ông đang hưởng là 5.692.000đ/ tháng), với số tiền (5.692.000đ : 2) x 12 năm = 34.152.000đ và tiền lãi do chậm thanh toán tính từ ngày 08/01/2016 đến ngày 08/3/2017 là (34.152.000đ x 0,75%/tháng x 14 tháng) = 3.585.960đ, tổng cộng là 37.737.960đ.
Ông không đồng ý với yêu cầu phản tố của Công ty D về việc yêu cầu ông hoàn trả tiền bảo hiểm xã hội là 33.012.564đ và tiền lãi theo mức 09%/năm tính từ ngày 01/01/2016 đến ngày 31/12/2016 là 2.971.131đ, tổng cộng là 35.983.695đ. Ông đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
* Tòa án sơ thẩm tuyên:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Ngô Văn L.
Buộc Công ty cổ phần D có nghĩa vụ thanh toán cho ông Ngô Văn L tiền trợ cấp thôi việc là 34.152.000đ và tiền lãi chậm thanh toán là 3.585.960đ, tổng cộng là 37.737.960đ (ba mươi bảy triệu bảy trăm ba mươi bảy nghìn chín trăm sáu mươi đồng).
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn Công ty cổ phần D về việc yêu cầu ông Ngô Văn L hoàn trả tiền bảo hiểm xã hội là 33.012.564đ và tiền lãi là 2.971.131đ, tổng cộng là 35.983.695đ (ba mươi lăm triệu chín trăm tám mươi ba nghìn sáu trăm chín mươi lăm đồng).
* Tòa án phúc thẩm nhận định:
Về nội dung phản tố của Công ty yêu cầu ông L hoàn trả chi phí đào tạo nghề, cụ thể là tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong thời gian ông L tham gia học tại Trường Đại học E từ tháng 10/2009 đến tháng 9/2013 là 32.879.016đ, Hội đồng xét xử xét thấy: Công ty D là công ty có vốn Nhà nước. Ông L được Công ty D và Sở Nội vụ tỉnh Đồng Nai ra quyết định cử đi học tại Trường Đại học E. Ngày 03/9/2009, ông L làm bản cam kết với nội dung “…Nay tôi làm bản cam kết sau khi đã học tốt nghiệp trở về phục vụ công tác tại Công ty với thời gian ít nhất là 10 năm (mười năm). Trong thời gian đi học, tôi chấp hành đúng các quy định do Công ty đề ra. Nếu thực hiện trái với cam kết này tôi xin bồi hoàn tất cả các chi phí (nếu có) mà Công ty hỗ trợ cho tôi. Về phía Công ty nếu cá nhân tôi có vi phạm cam kết, Công ty sẽ không giải quyết các chế độ, quyền lợi khác về lao động”.
Sau khi tốt nghiệp trở về, ông L bắt đầu làm việc tại Công ty D từ ngày 01/10/2013, đến ngày 01/01/2016 thì xin nghỉ việc do hoàn cảnh cá nhân. Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết chấp nhận buộc Công ty trợ cấp thôi việc theo mức lương ông L khởi kiện là có cơ sở. Tuy nhiên, về việc không chấp nhận nội dung phản tố của Công ty, Hội đồng xét xử xét sau khi được đào tạo về, thời gian ông L đi làm lại tại Công ty D là 02 năm 03 tháng, không đủ 10 năm như đã cam kết. Mặt khác, theo Điều 2 Quyết định số 357/QĐ-CTCPD về việc giải quyết nghỉ việc đối với ông L thì “ông Ngô Văn L có trách nhiệm trả lại thẻ bảo hiểm y tế, thẻ nhân viên và thanh toán các khoản nợ (nếu có) trước khi nghỉ việc”.
Do đó, Công ty D phản tố yêu cầu ông L hoàn trả chi phí đào tạo, cụ thể là số tiền Công ty đã đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong thời gian ông L tham gia học tại Đại học E từ tháng 10/2009 đến tháng 9/2013, với số tiền 32.879.016đ theo cam kết đào tạo đã được thỏa thuận giữa 02 bên là có cơ sở chấp nhận.
- Về yêu cầu ông L trả tiền lãi suất từ ngày 01/01/2016 đến ngày 31/12/2016 là 2.959.111đ: Xét do tranh chấp là yêu cầu trả tiền chí phí đào tạo bao gồm tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu tính lãi suất của Công ty D.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của Công ty D, sửa bản án sơ thẩm, buộc ông L phải trả cho Công ty D chi phí đào tạo nghề, cụ thể số tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp từ tháng 10/2009 đến tháng 09/2013 là 32.879.016đ.
* Tòa án phúc thẩm tuyên:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Ngô Văn L về “tranh chấp tiền trợ cấp thôi việc” đối với bị đơn Công ty cổ phần D. Buộc Công ty cổ phần D có nghĩa vụ thanh toán cho ông Ngô Văn L tiền trợ cấp thôi việc là 34.152.000đ và tiền lãi chậm thanh toán là 3.585.960đ, tổng cộng là 37.737.960đ (ba mươi bảy triệu bảy trăm ba mươi bảy nghìn chín trăm sáu mươi đồng).
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn Công ty cổ phần D về “tranh chấp chi phí đào tạo nghề” đối với ông Ngô Văn L. Buộc ông Ngô Văn L có nghĩa vụ thanh toán chi phí đào tạo nghề tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp từ tháng 10/2009 đến tháng 09/2013 cho Công ty cổ phần D số tiền là 32.879.016đ (ba mươi hai triệu tám trăm bảy mươi chín nghìn không trăm mười sáu đồng).
9. Bản án về yêu cầu hoàn trả chi phí đào tạo, tiền thưởng và bồi thường thiệt hại do vi phạm cam kết số 04/2022/LĐ-PT
* Nội dung bản án:
Công ty trách nhiệm hữu hạn Công nghiệp KCP Việt Nam (gọi tắt là Công ty KCP) là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có trụ sở tại Việt Nam. Ngày 07/12/2009, Công ty KCP ký kết hợp đồng lao động tuyển dụng ông Lâm Chí Q vào làm việc tại công ty. Đến ngày 07/3/2014, các bên ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn, ông Q làm việc vị trí kỹ sư điện trong công ty. Ngày 26/3/2016, Công ty KCP và ông Q ký bản cam kết sau đào tạo, được cử đào tạo chứng chỉ Trưởng ca vận hành chuyên ngành điện đồng phát, cam kết phục vụ lâu dài (tối thiểu 5 năm), nếu vi phạm thì phải chịu trách nhiệm bồi hoàn theo yêu cầu của công ty về toàn bộ chi phí đào tạo kể cả tiền lương, lương tăng thêm và các khoản phụ cấp khác trong quá trình đào tạo tập trung và không làm việc tại đơn vị, tuy nhiên bản cam kết không nêu rõ thời gian đào tạo. Tiếp đó, ngày 01/01/2018, hai bên tiếp tục ký hợp đồng đào tạo nghề số 003/HĐĐT-KCP, thời hạn đào tạo 18 tháng, ông Q tiếp tục cam kết phục vụ tối thiểu 5 năm kể từ ngày nhận được chứng chỉ trưởng ca vận hành (Điều 3), nếu vi phạm thì phải chịu trách nhiệm hoàn trả chi phí đào tạo và bồi thường thiệt hại (Điều 4). Do vị trí Trưởng ca vận hành nhà máy điện là một vị trí công việc đặc thù, khó tuyển dụng trên thị trường lao động bình thường nên Công ty đã chi trả khoản chi phí lớn để đào tạo. Công ty đã cử ông Q tham gia 3 khóa đào tạo, sát hạch đặc biệt do Trung tâm điều độ Hệ thống điện quốc gia tổ chức, cụ thể:
- Lần đầu: Từ ngày 26/3/2016 đến ngày 31/3/2016 tại thành phố Q, tỉnh B; ông Q thi trượt kỳ sát hạch này.
- Lần hai: Từ ngày 10/10/2016 đến ngày 15/10/2016 tại thành phố N, tỉnh K; ông Q vẫn thi trượt kỳ sát hạch.
- Lần ba: Từ ngày 21/01/2018 đến ngày 26/01/2018 tại thành phố H, lần này ông Q thi đạt và đến ngày 09/02/2018 được cấp chứng chỉ Trưởng ca vận hành nhà máy điện.
Ngoài ra, ông Q còn tham gia quá trình đào tạo tập trung tại Công ty KCP do Công ty tổ chức từ tháng 03/2016 đến tháng 02/2017.
Ngày 02/01/2019, ông Q ký phụ lục hợp đồng lao động 2019 tiếp tục làm việc tại công ty; ngày 21/01/2019, ông Q ký Thông báo thưởng nội bộ và cam kết tiếp tục làm việc 01 năm tính từ 01/01/2019, nếu nghỉ việc phải hoàn trả tiền thưởng.
Quá trình làm việc, ngày 10/8/2019 ông Q nộp đơn xin thôi việc và tự ý nghỉ việc đến ngày 26/8/2019 vì lý do chăm sóc mẹ bệnh và con nhỏ. Tại cuộc họp ngày 26/8/2019 về giải quyết đơn xin nghỉ việc, ông Q xin làm việc trở lại và cho thêm thời gian suy nghĩ việc nghỉ việc, ông có đi làm lại đến ngày 09/10/2019 thì nghỉ việc luôn và không rút lại đơn xin nghỉ việc. Công ty KCP đã nhiều lần thông báo, giải thích đề nghị ông Q quay lại làm việc, nếu không thì hoàn trả chi phí đào tạo và các khoản khác do vi phạm cam kết nhưng ông Q không đồng ý. Công ty KCP khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông Q hoàn trả toàn bộ chi phí đào tạo và các khoản chi phí khác do vi phạm cam kết đã ký là 236.526.430 đồng và bồi thường thiệt hại do vi phạm cam kết làm việc 5 năm là 168.873.593 đồng, cụ thể:
- Tiền lương từ tháng 3/2016 đến tháng 2/2017: 76.902.173 đồng;
- Tiền bảo hiểm (BHXH, BHYT, BHTN) chi trả: 11.022.000 đồng;
- Tiền ăn trong thời gian làm việc: 2.686.000 đồng;
- Tiền nộp 2% phí Công đoàn: 987.000 đồng;
- Tiền bảo hiểm tai nạn: 613.743 đồng;
- Chi phí khám sức khỏe định kỳ: 414.000 đồng;
- Tiền lương chi trả ông S đào tạo nội bộ: 13.250.000 đồng;
- Tiền chi phí tham gia học và thi tại TP Q : 1.452.879 đồng;
- Tiền chi phí tham gia học và thi tại TP N: 2.355.152 đồng;
- Tiền chi phí tham gia học và thi tại TP H: 3.068.438 đồng;
- Chi phí đào tạo, sát hoạch và cấp chứng nhận trưởng ca: 110.594.000 đồng;
- Tiền đồng phục và giày bảo hộ năm 2019: 293.000 đồng.
- Tiền thưởng đặc biệt 2018: 12.888.000 đồng.
- Thiệt hại do sắp xếp người làm thay vị trí của ông Q sau khi ông nghỉ việc: 168.873.593 đồng.
Đối với việc ông Q đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, Công ty KCP không yêu cầu xem xét trách nhiệm và giải quyết bồi thường theo pháp luật về lao động.
* Tòa án sơ thẩm tuyên:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Buộc ông Lâm Chí Q phải hoàn trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Công nghiệp KCP Việt Nam số tiền 102.774.622 (một trăm lẻ hai triệu bảy trăm bảy mươi bốn nghìn sáu trăm hai mươi hai) đồng chi phí đào tạo, tiền lương, phụ cấp khác và 12.888.000 (mười hai triệu tám trăm tám mươi tám nghìn) đồng tiền thưởng năm 2018.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn về hoàn trả chi phí đào tạo và bồi thường thiệt hại khác với tổng số tiền 289.737.401 (hai trăm tám mươi chín triệu bảy trăm ba mươi bảy nghìn bốn trăm lẻ một) đồng.
* Tòa án phúc thẩm nhận định:
Về kháng cáo của nguyên đơn và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Hòa:
Yêu cầu buộc bị đơn hoàn trả các khoản tiền sau:
- Chi phí đào tạo tại H: Thêm 60.594.000 đồng.
- Tiền lương không được cấp sơ thẩm chấp nhận: 31.418.030 đồng.
- Tiền bảo hiểm (BHXH, BHYT, BHTN) chi trả: 11.022.000 đồng;
- Tiền ăn trong thời gian làm việc: 2.686.000 đồng;
- Tiền nộp 2% phí Công đoàn: 987.000 đồng;
- Tiền bảo hiểm tai nạn: 613.743 đồng;
- Chi phí khám sức khỏe định kỳ: 414.000 đồng;
- Tiền lương chi trả ông S đào tạo nội bộ: 13.250.000 đồng;
- Tiền đồng phục và giày bảo hộ năm 2019: 293.000 đồng. Tổng cộng: 120.863.733 đồng.
Đối với khoản chi phí đào tạo tại H, nguyên đơn cung cấp hợp đồng giao kết với bên thứ ba là Công ty cổ phần giải pháp quản lý năng lượng có địa chỉ tại quận T, thành phố H về việc đào tạo chuyên đề vận hành hệ thống điện số 2018/HĐĐT-ES-KCPVIL ngày 20/01/2018 với chi phí 184.540.868đ. Lớp học được tổ chức trong thời gian 5 ngày từ 21-26/01/2018 tại H, nguyên đơn đã chuyển trả toàn bộ chi phí theo hợp đồng. Thực tế bị đơn ông Q có tham gia khóa học này, nên phải chịu một phần chi phí đào tạo. Ngoài ra còn có các chi phí ăn ở, đi lại khi tham gia khóa học. Tổng chi phí thực tế nguyên đơn đã thanh toán để bị đơn được đào tạo và cấp chứng chỉ Trưởng ca vận hành chuyên ngành điện đồng phát là 110.594.000đ nhưng cấp sơ thẩm chỉ chấp nhận số tiền 50.000.000đ là chưa phù hợp. Chính vì vậy, cần chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện P, sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn về việc buộc bị đơn hoàn trả khoản chi phí đào tạo và cấp chứng chỉ Trưởng ca vận hành chuyên ngành điện đồng phát là 110.594.000đ, cấp sơ thẩm đã chấp nhận bị đơn hoàn trả cho nguyên đơn 50.000.000đ nên bị đơn phải tiếp tục trả cho nguyên đơn 60.594.000đ là có căn cứ.
Đối với các khoản tiền còn lại cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở nên cần giữ nguyên.
* Tòa án phúc thẩm tuyên:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; Buộc ông Lâm Chí Q phải hoàn trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Công nghiệp KCP Việt Nam số tiền 163.368.622đ chi phí đào tạo, tiền lương, phụ cấp khác và 12.888.000đ tiền thưởng năm 2018. Tổng cộng là 176.256.622đ (một trăm bảy mươi sáu triệu hai trăm năm mươi sáu nghìn sáu trăm hai mươi hai đồng).
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn về hoàn trả một phần tiền lương, tiền bảo hiểm, tiền ăn, tiền nộp 2% phí Công đoàn, chi phí khám sức khỏe định kỳ: 414.000 đồng, tiền lương đào tạo nội bộ, tiền đồng phục và giày bảo hộ và bồi thường thiệt hại khác với tổng số tiền 229.143.401 (hai trăm hai mươi chín triệu một trăm bốn mươi ba nghìn bốn trăm lẻ một đồng).
10. Bản án 01/2021/LĐ-PT ngày 04/01/2021 về tranh chấp bồi thường chi phí đào tạo
* Nội dung bản án:
Ông Nguyễn Đại N vào làm việc tại Bệnh viện Đa khoa X trên cơ sở hợp đồng làm việc không xác định thời hạn kể từ ngày 01/6/2006, với chức danh chuyên môn: Bác sĩ điều trị. Ngày 30 tháng 12 năm 2016 ông N và Bệnh viện ký hợp đồng làm việc không xác định thời hạn kể từ ngày 10/11/2016, với chức danh chuyên môn: Bác sĩ (hạng III).
Ngày 31/3/2016, ông N được Sở Y tế cử đi dự thi tuyển sinh Bác sỹ chuyên khoa cấp II năm 2016 theo quyết định số 932/QĐ-SYT ngày 31/3/2016. Sau khi trúng tuyển ông N được Sở Y tế cử đi học theo Quyết định số 3769/QĐ-SYT ngày 06 tháng 9 năm 2016.
Trước đó, ngày 23 tháng 3 năm 2016 ông N đã ký Bản cam kết với Bệnh viện Đa khoa X về việc nếu không hoàn thành thời gian cam kết tối thiểu sau khi đi đào tạo về thì phải bồi thường cho Bệnh viện toàn bộ chi phí đào tạo theo Quy chế chi tiêu nội bộ của Bệnh viện và theo quy định của Nhà nước .
Từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 9 năm 2018, ông N đi học tại trường Đại học Y Hà Nội. Chi phí khóa học hết 25.500.000 đồng và chi phí này do Bệnh viện Đa khoa X chi trả.
Sau khi đi đào tạo về, ông N đã phục vụ Bệnh viện Đa khoa X được 15 tháng (từ tháng 10/2018 đến hết tháng 12/2019) và sau đó ông N làm đơn xin chuyển công tác và thông báo chấm dứt hợp đồng làm việc.
Ngày 06/01/2020 Bệnh viện quyết định thành lập Hội đồng xét đền bù chi phí đào tạo và ngày 07/01/2020 Hội đồng xét đền bù chi phí đào tạo đã họp thống nhất kết luận do ông N chưa phục vụ đủ thời gian cam kết sau khi hoàn thành khóa học nên phải bồi thường số tiền là:
+ Đền bù theo quy định tại Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 với tổng số tiền là 19.125.000 đồng.
+ Đền bù theo Quy chế chi tiêu nội bộ của Bệnh viện Đa khoa X số tiền 641.760.686 đồng.
Theo quy định tại Điều 9 Nghị định 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ thì mỗi năm công tác được tính giảm tối đa 1% chi phí đền bù (không tính thời gian tập sự và thời gian sau đào tạo): Tổng thời gian công tác của ông N là 13 năm (từ tháng 6/2006 đến 9/2018).
Tổng chi phí được giảm: (19.125.000 đồng + 641.760. 686 đồng) x 1% x 13 năm = 85.915.139 đồng Sau khi giảm 85.915.139 đồng theo điều kiện giảm trừ của quy định Nhà nước, tổng số tiền ông N phải nộp đền là: 574.970.547 đồng. Ông N đã nộp số tiền đề bù chi phí đào tạo là 574.970.547 đồng.
Ngày 09/01/2020 Bệnh viện ban hành thông báo về việc đền bù chi phí đào tạo đối với ông N và ông N đã nộp đủ số tiền đền bù là 574.970.547 đồng.
Sau khi ông N thực hiện đền bù xong, ngày 06 tháng 02 năm 2020 Giám đốc Bệnh viện Đa khoa X đã ký Quyết định số 295/QĐ-BVĐKXP về việc chấm dứt hợp đồng lao động với ông N.
Do ông N không thực hiện đủ thời gian làm việc sau khóa học và vi phạm cam kết nên ông N đã bồi thường chi phí đào tạo cho Bệnh viện Đa khoa X số tiền 574.970.547 đồng.
Ngày 18/5/2020, ông N gửi Đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Ông N cho rằng do không am hiểu về pháp luật nên ông đã chấp nhận bồi thường với số tiền 574.970.547 đồng. Ông N nhận thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm nghiêm trọng nên ông N đề nghị Tòa án nhân dân quận Ba Đình giải quyết những vấn đề sau:
1/ Ông N chỉ chấp thuận nộp đền bù số tiền phục vụ đào tạo theo quy định của chính phủ tại Nghị định số 101/2017/NG-CP ngày 01/9/2017, số tiền cụ thể là.
-Phí đền bù: S = F : T1 x (T1-T2).
Trong đó: S = (Tổng chi phí khóa học: Thời gian yêu cầu phục vụ sau khi hoàn thành khóa học) x (Thời gian yêu cầu phục vụ sau khi hoàn thành khóa học – Thời gian đã phục vụ sau đào tạo). Thời gian phục vụ sau đào tạo được tính từ tháng 10/2018 đến hết 12/2019. S = (25.500.000 đồng /60 tháng) x (60 tháng- 15 tháng) = 425.000đồng x 45 = 19.125.000 đồng.
- Giảm chi phí đền bù theo quy định:
Tổng thời gian công tác: 13 năm (từ tháng 6/2006 đến tháng 9/2018) Tổng chi phí được giảm: 19.125.000 đồng x 1% x13 năm = 2.486.250 đồng.
- Tổng chi phí phải đền bù theo quy định Nhà nước là: (19.125.000 đồng – 2.486.250 đồng) = 16.638.750 đồng.
2/ Yêu cầu Bệnh viên Đa khoa X hoàn trả lại cho ông N số tiền đền bù phí đào tạo trái quy định của Nhà nước là:574.970.547 đồng – 16.638.750 đồng = 558.331.797 đồng.
* Tòa án sơ thẩm tuyên:
1, Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc đòi lại chi phí đào tạo của ông Nguyễn Đại N đối với Bệnh viện Đa khoa X.
2, Về án phí: Ông Nguyễn Đại N phải chịu án phí lao động sơ thẩm là:15.166.636 đồng.
Xác nhận ông Nguyễn Đại N đã nộp 7000.000 đồng tạm ứng án phí lao động theo biên lai số 0024651 ngày 22 tháng 7 năm 2020 tại Chi cục thi hành án dân sự. Còn phải nộp tiếp 8.166.636 đồng.
* Tòa án phúc thẩm nhận định:
1. Bệnh viện Đa khoa X là đơn vị hành chính sự nghiệp trực thuộc Sở Y tế Hà Nội, có tư cách pháp nhân.
Ông N làm việc tại Bệnh viện Đa khoa X theo chế độ hợp đồng làm việc không xác định thời hạn, hưởng lương từ quỹ lương của Bệnh viện theo ngạch, bậc lương đối với viên chức do Nhà nước quy định tại Nghị định 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính Phủ nên ông N là viên chức làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập.
Quá trình tuyển dụng, ký kết hợp đồng làm việc, cử đi đào tạo đối với ông N của Bệnh viện Đa khoa X được thực hiện theo quy định của Luật viên chức và các văn bản hướng dẫn. Bệnh viện ký hợp đồng làm việc với ông N theo quy định tại Điều 25 và Điều 26 Luật viên chức và áp dụng loại “Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn” ban hành kèm Thông tư số 15/2012/TT-BNV ngày 25/12/2012 của Bộ Nội Vụ hướng dẫn về tuyển dụng, ký kết hợp đồng làm việc và đền bù chi phí đào tạo, bồi dưỡng đối với viên chức.
Như vậy, quan hệ lao động được xác lập giữa Bệnh viện Đa khoa X và ông N là quan hệ lao động giữa người sử dụng lao động với viên chức làm công tác chuyên môn. Do đó, căn cứ các quy định của Luật viên chức và các văn bản hướng dẫn để xác định trách nhiệm bồi thường của viên chức đối với đơn vị sử dụng lao động trong trường hợp viên chức có vi phạm.
Việc bồi thường chi phí đào tạo của ông N đối với Bệnh viện Đa khoa X được thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 35 Luật Viên chức và các văn bản hướng dẫn.
Theo quy định tại Điều 7, Điều 8 Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/09/2017 của Chính phủ về “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức” và Điều 17 Thông tư số 15/2012/TT-BNV ngày 25/12/2012 của Bộ Nội Vụ thì “Chi phí đền bù bao gồm học phí và tất cả các khoản chi phí khác phục vụ cho khóa học, không tính lương và các khoản phụ cấp (nếu có)”.
2. Tại khoản 4.3 điều 4 Quy chế chi tiêu nội bộ của Bệnh viện Đa khoa X quy định: Nếu viên chức chưa thực hiện đủ thời gian theo cam kết thì phải bồi hoàn tất cả chi phí đào tạo mà Bệnh viện đã chi trong thời gian viên chức được cử đi đào tạo theo quy định của Nhà nước và theo quy định của Bệnh viện là tổng các loại tiền thưởng, hỗ trợ thu nhập hàng tháng x 5 lần (trong thời gian tham gia khóa đào tạo). Quy chế chi tiêu nội bộ của Bệnh viên đa khoa X đã đưa ra tiêu chí này là không trái với quy định của pháp luật. Bệnh viện cho rằng đây là thỏa thuận với người lao động để họ có trách nhiệm và nghĩa vụ trong việc thực hiện hợp đồng lao động mà Bệnh viện đã ký kết với họ.
Xét thấy, trong thời gian hai năm ông N đi đào tạo ngoài hưởng tiền lương, phụ cấp, ông N còn được Bệnh viện trả 167.311.183 đồng, bao gồm khoản thu nhập tăng thêm từ khoản tiền tự chủ theo Quy chế chi tiêu nội bộ quy định. Số tiền này, Bệnh viện đã chi cho ông N trong thời gian ông N đi học không phải là lương và các khoản phụ cấp theo quy định của Bộ luật Lao động và Nghị định số 05/NĐ-CP ngày 12 tháng 01 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động.
Quy chế chi tiêu nội bộ của Bệnh viện Đa khoa X đã được trưng cầu ý kiến của các phòng, khoa trong Bệnh viện và được thông qua Đại hội công nhân viên chức, bản thân ông N trước khi tham gia khóa học đã có bản cam kết với Bệnh viện sau khi tốt nghiệp trở lại làm việc tại Bệnh viện Đa khoa X tối thiểu là 05 năm, nếu không hoàn thành thời gian cam kết tối thiểu thì cam kết bồi thường cho Bệnh viện Đa khoa X toàn bộ chi phí đào tạo theo Quy chế chi tiêu nội bộ của Bệnh viện và theo đúng quy định của Nhà nước.
Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của ông N xác nhận ông N có ký cam kết trước khi đi học, trong Hợp đồng lao động ông N ký với Bệnh viện có quy định ông N được hưởng các phúc lợi theo quy định hiện hành của Bệnh viện và chấp hành nội quy, quy chế của đơn vị, bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Bản cam kết của ông N ký ngày 23/3/2016 với Bệnh viện Đa khoa X với nội dung được tóm tắt như sau: “ Sau khi tốt nghiệp trở lại làm việc tại Bệnh viện Đa khoa X tối thiều là 05 năm…… Nếu tôi không hoàn thành thời gian cam kết tối thiểu nói trên, tôi cam kết bồi thường cho Bệnh viện Đa khoa X toàn bộ chi phí đào tạo theo quy chế chi tiêu nội bộ của Bệnh viện và theo đúng quy định của Nhà nước …” Ông N đã xác nhận Bản cam kết ngày 23 tháng 3 năm 2016 do ông điền thông tin và ký là hoàn toàn tự nguyện không bị ai ép buộc. Ông N cho rằng thỏa thuận này là trái luật, tuy nhiên Hội đồng xét xử cho rằng đấy là thỏa thuận mang tính chất tự nguyện của hai bên, phù hợp với thỏa thuận trong Hợp đồng lao động, Quy chế chi tiêu nội bộ và không vi phạm điều cấm của pháp luật.
Xét thấy, do ông N vi phạm cam kết nên Bệnh viện Đa khoa X đã yêu cầu ông N bồi thường chi phí đào tạo theo các quy định của pháp luật và Quy chế chi tiêu nội bộ của Bệnh viện Đa khoa X, ông N đã bồi thường cho Bệnh viện chi phí đào tạo số tiền 574.970.547 đồng là phù hợp với quy định của pháp luật và Bản cam kết mà ông N đã ký ngày 23 tháng 3 năm 2016.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện ủy quyền của ông N trình bày ông N không đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và ông N được tuyển dụng là viên chức nên ông N được điều chuyển công tác sang đơn vị khác cũng là cơ quan nhà nước mà không phải chấm dứt hợp đồng lao động, do vậy ông N không phải bồi hoàn chi phí đào tạo. Hội đồng xét xử nhận định ông N vào làm việc tại Bệnh viên Đa khoa X theo hợp đồng không xác định thời hạn đúng theo quy định tại Điều 2 Luật Viên chức (Điều 2 Luật Viên chức quy định: Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc.) do vậy khi ông N có Đơn xin chuyển công tác và thông báo chấm dứt hợp đồng làm việc gửi Bệnh viện tức là ông N đã chủ động, đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc.
Do đó, Hội đồng xét xử sơ thẩm đã quyết định bác các yêu cầu khởi kiện của ông N là có cơ sở pháp lý và đúng quy định của pháp luật.
* Tòa án phúc thẩm tuyên:
1. Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Đại N, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 05/2020/LĐ-ST ngày 15/9/2020 của Tòa án án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
2. Về án phí phúc thẩm, ông Nguyễn Đại N phải chịu 300.000 đồng và được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số AA/2018/0024760 ngày 15/9/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Ba Đình.
Trên đây là danh sách thống kê 10 bản án lao động về tranh chấp học nghề, tập nghề của Toà án cấp phúc thẩm. Nhằm mang lại dịch vụ pháp lý tốt nhất cho khách hàng, mọi thắc mắc cần giải đáp thêm khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi theo thông tin phía dưới.
Công ty Luật TNHH MTV DB (DB Legal) là Công ty Luật Việt Nam cung cấp các dịch vụ pháp lý uy tín, chuyên nghiệp. Với đội ngũ nhân sự trách nhiệm, có chuyên môn cao, DB Legal là đối tác tin cậy cho khách hàng cá nhân và doanh nghiệp trong các vấn đề pháp lý tại Việt Nam.
Để biết thêm thông tin chi tiết vui lòng liên hệ với chúng tôi
Local Office Numbers: | |
Hotline/Zalo/Whatsapp: | +84 357 466 579 |
Email: | contact@dblegal.vn |
Bài viết liên quan:
- Tổng hợp 10 bản án hôn nhân gia đình có tranh chấp về tài sản, nuôi con mà vợ chồng sống chung không đăng ký kết hôn
- Tổng hợp 10 bản án hôn nhân gia đình có tranh chấp xác định cha mẹ cho con hoặc con cho cha mẹ
- Tổng hợp 10 bản án hôn nhân gia đình có tranh chấp tài sản sau ly hôn
- Tổng hợp 10 bản án hôn nhân gia đình có tranh chấp về quyền nuôi con.
- Tổng hợp 10 bản án hôn nhân gia đình có tranh chấp về tài sản là quyền sử dụng đất.
- Công văn 60/TB-VKS-DS thông báo Rút kinh nghiệm về kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự
- Tổng hợp 10 bản án lao động về tranh chấp xử lý kỷ luật, sa thải, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của Tòa án cấp phúc thẩm
- Tổng hợp 10 bản án lao động về tranh chấp liên quan đến việc làm, tiền lương của Tòa án cấp phúc thẩm
- Tổng hợp 10 bản án lao động về tranh chấp bồi thường thiệt hại, trợ cấp của Toà án cấp phúc thẩm.
- Tổng hợp 10 bản án liên quan đến tranh chấp giữa các thành viên trong công ty