Banner

Tổng hợp 10 bản án liên quan đến tranh chấp hủy bỏ Nghị Quyết đại hội đồng cổ đông và Nghị quyết Hội đồng thành viên

Danh sách 10 bản án phúc thẩm liên quan yêu cầu hủy bỏ Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông và Nghị quyết của Hội đồng thành viên

Mục lục:

1. Bản án 1: Bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 126/2022/KDTM-PT ngày  22 tháng 03 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

Về việc: “Yêu cầu hủy bỏ Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông”

1.1. Tóm tắt nội dung vụ án:

Bà Nguyễn Thị T và Bà Trương TH là cổ đông của Công ty cổ phần  Đ6 nắm giữ khoảng 24% cổ phần công ty. Vào ngày 07/11/2020, công ty  cổ phần Đ6 tổ chức Đại hội cổ đông bất thường nhưng không tổ chức được và bị hoãn lại. Đến ngày 10/11/2018, công ty tiếp tục tổ chức buổi họp vào lúc 08 giờ sáng. Bà T và bà TH không nhận được thông báo cũng như giấy mời họp. Tại buổi họp đã quyết định chủ tịch HĐQT mới của công ty. Bà T và bà TH cho rằng nhóm cổ đông do bà Nguyễn Thị KC, ông Đặng Vũ TD (con bà KC, là giám đốc công ty) và ông Lại HT, nhóm cổ đông này đã tìm mọi cách ngăn cản loại bỏ hai bà ra khỏi cuộc họp Đại hội cổ đông bất thường này, không muốn hai bà có tên là thành viên Hội đồng quản trị. Việc làm này đã xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của Bà T và bà TH. Do đó, căn cứ theo khoản 1, 2, 3 Điều 139; Điều 147 Luật doanh nghiệp 2014, bà T và bà TH yêu cầu TAND quận Gò Vấp hủy bỏ các nghị quyết số 03/2020/ĐHĐCĐ/NQ-ĐÔ6 và số 04/2020/ĐHĐCĐ/NQ-ĐÔ6 cùng ngày 10/11/2020 của Công ty cổ phần Đ6 đã được thông qua tại buổi họp ngày 10/11/2020.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định: Tại Quyết định giải quyết việc dân sự sơ thẩm số 235/2021/QĐST- KDTM ngày 02/12/2021 của TAND quận Gò Vấp đã tuyên: Chấp nhận yêu cầu giải quyết việc dân sự của Bà Nguyễn Thị T và bà Trương Thị H  về việc yêu cầu hủy bỏ nghị quyết Đại hội đồng cổ đông của công ty cổ phần Đ6. Hủy bỏ Nghị quyết số 03/2020/DĐCĐ/NQ-ĐÔ6 và Nghị quyết số 04/2020/ĐHĐCĐ/NQ-ĐÔ6 cùng ngày 10/11/2020 của Công ty cổ phần Đ6 đã được thông qua tại buổi họp ngày 10/11/2020.

Ngày 07/12/2021, đại diện người bị yêu cầu có đơn kháng cáo Quyết định giải quyết việc dân sự sơ thẩm số 235/2021/QĐST-KDTM ngày 02/12/2021 của TAND quận Gò Vấp.

1.2. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:

Xét nội dung kháng cáo: Đại diện người bị yêu cầu vẫn giữ nguyên  yêu cầu kháng cáo cho rằng cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, đề nghị Hội đồng phúc thẩm sửa Quyết định sơ thẩm, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người yêu cầu Bà Nguyễn Thị T, bà Trương TH.

Xét lý do kháng cáo: Về thời hạn sở hữu cổ phần, bà T sở hữu cổ  phần từ ngày 18/02/2020, Bà TH là sở hữu cổ phần từ ngày 18/05/2020. Khoản 2 Điều 114 của Luật doanh nghiệp năm 2014 quy định: “Cổ đông  hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty có các quyền sau đây:…”. Như vậy, nhóm cổ đông này đã sở hữu cổ phần liên tục trên 06 tháng. Do đó, nhóm cổ đông  này có quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ các nghị quyết số 03/2020/ĐHĐCĐ/NQ-ĐÔ6 và số 04/2020/ĐHĐCĐ/NQ-ĐÔ6 ngày 10/11/2020 của công ty cổ phần Đ6 theo quy định tại Điều 147 Luật doanh nghiệp năm 2014.

Bên cạnh đó, tại thời điểm Tòa cấp sơ thẩm xét xử sơ thẩm thì Điều 151 Luật doanh nghiệp năm 2020 đã có hiệu lực, lại không quy định về tỷ lệ vốn hoặc thời hạn sở hữu vốn, cụ thể: “Trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được nghị quyết hoặc biên bản họp Đại hội đồng cổ đông hoặc biên bản kết quả kiểm phiếu lấy ý kiến Đại hội đồng cổ đông, cổ đông, nhóm cổ đông quy định tại khoản 2 Điều 115 của Luật này có quyền yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét, hủy bỏ nghị quyết hoặc một phần nội dung nghị quyết Đại hội đồng cổ đông”. Trong khi đó Khoản 3 Điều 156 Luật ban hành văn bản quy định: “Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật sau”. Như vậy, cấp sơ thẩm chấp nhận quyền khởi kiện của Bà T, Bà TH  là đúng.

Xét trình tự và thủ tục triệu tập họp và ra nghị quyết của người triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông công ty cổ phần Đ6, như cấp sơ thẩm       đã nhận định: Tại “Vận đơn gửi nhiều bưu gửi” ngày 28/10/2020 do đại diện công ty cổ phần Đ6 cung cấp không thể hiện các loại tài liệu mà người triệu tập đại hội cổ đông bất thường đã gửi cho bà T và Bà TH. Do đó, đại diện Bà T và Bà TH cho rằng không nhận được các tài liệu sử dụng cho cuộc họp là có căn cứ.

Theo tra cứu hành trình đơn hàng trên Viettelpost theo phiếu gửi số 601646529, phiếu gửi số 601646530 và phiếu gửi số 601646531 ngày 08/11/2020, do đại diện công ty cổ phần Đ6 cung cấp, thì ngày 08/11 là ngày chủ nhật, ngày lễ không tính, nên đến ngày 09/11 (thứ 2) thì đơn vị vận chuyển mới chấp nhận việc gửi và mới tiến hành đi gửi thư. Đến ngày 10/11/2020 vào lúc 08 giờ 49 phút thư mời họp của Bà T mới được nhận bởi người tên Hồng. Và vào lúc 9 giờ 41 phút thư mời họp của Bà TH mới được nhận bởi người tên Toàn và một thư khác của Bà TH được nhận vào lúc 10 giờ 37 do lễ tân tên Th nhận. Trong khi đó, cuộc họp đã được bắt đầu từ lúc 08 giờ. Như vậy, đại diện Bà T và Bà TH cho rằng không thể tham gia phiên họp lúc 08 giờ 00 phút, ngày 10/11/2021 là có căn cứ. NQ số 03/2020/ĐHĐCĐ/NQ-ĐÔ6 và Nghị quyết số 04/2020/ĐHĐCĐ/NQ-ĐÔ6 ngày 10/11/2020 của công ty cổ phần Đ6 đã  được thông qua tại buổi họp ngày 10/11/2020 là vi phạm các quy định tại Điều 139, Điều 141 Luật Doanh nghiệp 2015, vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Bà TH, Bà T nên cấp sơ thẩm hủy các Nghị quyết này là có  căn cứ.

1.3. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm Tuyên xử:

Không chấp nhận kháng cáo của Công ty cổ phần Đ6.Giữ nguyên Quyết định giải quyết việc dân sự sơ thẩm số 235/2021/QĐST-KDTM ngày 02/12/2021 của TAND quận Gò Vấp, thành  phố Hồ Chí Minh.

2. Bản án 2: Quyết định Kinh doanh thương mại phúc thẩm số 01/2022/QĐPT- KDTM ngày 29 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình.

Về việc: “Yêu cầu hủy bỏ Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông”

2.1. Tóm tắt nội dung việc dân sự:

Công ty Cổ phần phát triển T (sau đây gọi tắt là Công ty T) được Sở  kế hoạch và đầu tư tỉnh Thái Bình cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu ngày 08/8/2021 với số vốn điều lệ của Công ty là    2.500.000.000 đồng, gồm 05 cổ đông sáng lập, trong đó: Bà Nguyễn Thị        Ngọc A nắm giữ 95.000 cổ phần, tương đướng 38% vốn điều lệ; ông Nguyễn Văn T nắm giữ 75.000 cổ phần, tương đương 30% vốn điều lệ; bà Trịnh Thị N nắm giữ 25.000 cổ phần, tương đướng 10% vốn điều lệ; bà Đặng Thị T nắm giữ 25.000 cổ phần, tương đương 10% vốn điều lệ.

Ngày 22/4/2015, ông Nguyễn Văn T được đăng ký là Giám đốc - Người đại diện theo pháp luật của Công ty. Trong thời gian này, bà H chuyển nhượng toàn bộ 11% cổ phần cho bà X, ông T chuyển nhượng 2%  cổ phần cho ông C. Ông T, bà X nắm giữ 50% vốn điều lệ của ông ty.

Tháng 4/2016, ông T, bà X phát hiện ông C, bà Ngọc Anh tự ý lập hồ sơ thay đổi đăng ký kinh doanh 02 lần cho công ty, trong đó: lần thứ 06 là thay đổi người đại diện theo phâp luật từ ông Nguyễn Văn T sang bà Nguyễn Thị Ngọc Anh với lý do ông T bị thần kinh; lần thứ 7 là đăng ký tăng vốn điều lệ của Công ty từ 5.000.000.000 đồng lên 16.000.000.000 đồng mà chỉ có bà Nguyễn Thị Ngọc Anh được mua thêm  nên tỷ lệ sở hữu cổ phần của ông T, bà X còn lại rất nhỏ.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 04/2017/HCST ngày 21/7/2017 của TAND tỉnh Thái Bình và Bản án số 117/2018/HC-PT ngày 09/4/2018   của TAND cấp cao tại Hà Nội đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T,  bà X tuyên “Hủy giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đăng ký thay đổi lần thứ 7 của ông ty T.”

Ngày 28/11/2018, ông T và bà X đã triệu tập Đại hội đồng cổ đông

(ĐHĐCĐ) lần 3 (sau triệu tập lần 1 ngày 18/6/2018; lần 2 ngày 12/10/2018 không đủ điều kiện tiến hành đại hội theo quy định của điều lệ) để bầu Hội đồng quản trị (HĐQT) nhưng cuộc họp không thông qua được bất kỳ nội dung nào do nhóm cổ đông đều có ý kiến trái ngược nhau  (mỗi nhóm sở hữu 50% vốn điều lệ).

Các ngày 06/8/2019, 31/8/2019 và 19/9/2019, ông T, bà X nhận được thông báo mới họp ĐHĐCĐ bất thường nhưng vì thông báo trên không đúng quy định pháp luật nên ông T, bà X không tham gia dự họp.

Mặc dù vậy, ông C và bà Ngọc A vẫn tiếp tục họp và ban hành Nghị  quyết 01/2019/NQQ-ĐHĐCĐBT ngày 01/10/2019. Vì lẽ đó, ông T, bà X  đã nộp Đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố hủy bỏ Nghị quyết trên với lý do: Trình tự thủ tục triệu tập họp và ra quyết định không theo đúng Luật doanh nghiệp, người triệu tập họp không phải là HĐQT hợp pháp; tỷ lệ sở hữu cổ phần của các cổ đông trong danh sách cổ đông có quyền dự họp không đúng với thực tế và trái với giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đăng ký thay đổi lần thứ 8 và thứ 9.

2.2. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định:

Tại Quyết định số 01/2021/QĐST-KDTM ngày 22/4/2021 của TAND  huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình quyết định:

Không chấp nhận yêu cầu hủy Nghị quyết số 01/2019/NQ-ĐHĐCĐ ngày 01/10/2019 của Đại hội đồng cổ đông Công ty cổ phần phát triển T của ông Nguyễn Văn T, bà Lại Thị X.

Ngày 04/5/2021, ông Nguyễn Văn T và bà Lại Thị X kháng cáo toàn bộ Quyết định sơ thẩm giải quyết việc dân sự số 01/2021/QĐST-KDTM ngày 22/4/2021 của TAND huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

2.3. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:

Xét nội dung cuộc họp thì thấy:

Về việc tăng vốn điều lệ công ty: Trong ngày 09/11/2014; công ty T ban hành Biên bản họp cổ đông công ty số 12, 13 và 14 về việc phát hành    cổ phần để tăng vốn điều lệ. Đối với biên bản số 13 có 04 trang thì từ trang  thứ nhất đến trang thứ ba theo kết luận giám định số 12/KLGĐ-PC54 ngày     09/6/2016 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận đã   bị thay thế. Đối với trang 4 các cổ đông đều ký nhận nên cần phải khẳng định các cổ đông gồm ông T, bà X, ông C, bà Ngọc A đều biết được chủ  trương tăng vốn điều lệ và có chủ trương góp vốn 11 tỷ đồng nhưng không thể đồng nhất giữa việc các cổ đông ký nhận về việc tăng vốn điều lệ với       có cuộc họp Đại hội đồng cổ đông ngày 09/11/2014 là một.

Về thủ tục chào bán cổ phần: Việc Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào Quyết định giải quyết số 01/2020/QĐPT-KDTM ngày 09/09/2020 của TAND tỉnh Thái Bình mà không xem xét đến việc công ty T tổ chức họp cổ đông biểu quyết tăng vốn từ 5 tỷ đồng lên 16 tỷ đồng và thủ tục chào bán cổ phần cho cổ đông hiện hữu vi phạm Luật doanh nghiệp là không hợp pháp.

Đến thời điểm công ty T tiến hành cuộc họp ngày 01/10/2019 trong khi vắng mặt số cổ đông sở hữu 50% cổ phần phổ thông có quyền biểu quyết trong cuộc họp là ông T, bà X là vi phạm quy định tại Điều 144 Luật Doanh nghiệp. Do đó, việc công ty T ban hành Nghị quyết số 01/2019/NQ-ĐHĐCĐ ngày 01/10/2019 của Đại hội đồng cổ đông Công ty cổ phần phát triển T để bầu Hội đồng quản trị nhiệm kỳ 2018 – 2023 là không đúng pháp luật nên cần chấp nhận kháng cáo của ông T, bà X, sửa quyết định sơ thẩm của TAND huyện Kiến Xương theo hướng chấp nhận yêu cầu của ông T, bà X, hủy Nghị quyết 01/2019/NQ-ĐHĐCĐ ngày 01/10/2019 của Đại hội đồng cổ đông Công ty cổ phần phát triển T.

2.4. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm quyết định:

Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 375 Bộ luật Tố tụng dân sự, chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn T và bà Lại Thị X. Sửa Quyết định sơ thẩm giải quyết việc dân sự số 01/2021/QĐST-KDTM ngày 22/4/2021 của TAND huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

Căn cứ các Điều 114, 136, 139, 141, 144, 147 Luật Doanh nghiệp. Chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Văn T và bà Lại Thị X, hủy Nghị quyết số 01/2019/NQ-ĐHĐCĐ ngày 01/10/2019 của Đại hội đồng cổ đông Công ty cổ phần phát triển T.

3. Bản án 3. Quyết định Kinh doanh thương mại phúc thẩm số 57/2022/QĐPT- KDTM ngày 25 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.

Về việc: “Yêu cầu hủy bỏ Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông”

3.1. Tóm tắt nội dung việc dân sự:

Ngày 10/4/2021, công ty A tổ chức họp Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2021, kết quả cuộc họp được thể hiện thông qua Nghị quyết số 01/NQ ĐHĐCĐ 2021.

Ngày 28/4/2021, ông Nguyễn Văn K (người đang nắm giữ 19,409% vốn điều lệ) gửi Đơn yêu cầu Tòa án hủy bỏ một phần Nghị quyết số 01/NQ ĐHĐCĐ 2021 tại các Điều 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 12 về các quyết định  không được Đại hội đồng cổ đông thông qua. Đồng thời yêu cầu Tòa án hủy giấy đăng ký thay đổi vốn điều lệ ngày 15/4/2021 và giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty cổ phần của công ty A ngày 19/4/2021 vì lý do khi ông C được đại hội bầu thay ông K làm Chủ tịch đại hội, đã tự ý đưa thêm nội dung không có trong chương trình họp đã tửi kèm thư triệu tập cho các cổ đông.

3.2. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định:

Tại Quyết định giải quyết việc dân sự số 792/2022/QĐST-KDTM ngày 22/4/2022 của TAND thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

- Hủy một phần nội dung Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2021, số 01/NQ ĐHĐCĐ ngày 10/4/2021 của Công ty A tại:

Điều 7: Hủy 800 cổ phiếu tăng vốn điều lệ công ty của ông Nguyễn Văn K;

Điều 8: Thông qua quyết nghị điều chỉnh giảm vốn điều lệ của công ty;

Điều 9: Bãi nhiệm Hội đồng quản trị giữa nhiệm kỳ 2019 – 2024; Điều 10: Thông qua sửa điều lệ công ty;

Điều 12: Kiện toàn Hội đồng quản trị công ty.

- Hủy văn bản công bố thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp của công ty A, đăng ký ngày 15/4/2021 của Phòng Đăng ký kinh doanh Thành phố Hồ Chí Minh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày 29/4/2022, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty A có đơn kháng cáo Quyết định sơ thẩm nêu trên, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa quyết định sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Văn K.

3.3. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:

Xét trình tự, thủ tục họp Đại hội đồng cổ đông:

Việc thay đổi nội dung chương trình đại hội đưa thêm các vấn đề tại Điều 7, 8, 9, 10, 12 vào là không đúng. Từ đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Văn K, hủy bỏ các Điều 7, 8, 9, 10, 12 của Nghị quyết Đại hội đồng Cổ đông thường niên năm 2021 số 01/NQ ĐHĐCĐ ngày 10/4/2021 của Công ty A và Hủy văn bản công bố thay đổi  nội dung đăng ký doanh nghiệp của công ty A, đăng ký ngày 15/4/2021 của Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ pháp luật.

Xét nội dung đơn kháng cáo của công ty A:

Việc thay đổi nội dung chương trình đại hội không được thông qua bởi Đại hội đồng cổ đông nên không có hiệu lực. Đồng thời, việc thông qua nghị quyết đại hội đồng cổ đông phải đảm bảo tuân thủ đúng quy định của Luật doanh nghiệp và Điều lệ công ty để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết.

Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã đưa Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Ngoài ra, bản chính của Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp ngày 15/4/2021 đã được Tòa án sơ thẩm công bố trong phiên công khai chứng cứ. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành các thủ tục tố tụng theo đúng quy định pháp luật nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của công ty A.

Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Văn K là có căn cứ pháp luật, công ty A kháng cáo nhưng không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào mới làm căn cứ cho yêu cầu kháng cáo của mình.

3.4. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm quyết định:

Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 375 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Không chấp nhận kháng cáo của công ty A, giữ nguyên Quyết định giải quyết việc dân sự số 492/2022/QĐST-KDTM ngày 22/4/2022 của TAND thành phố Hồ Chí Minh.

4. Bản án 4. Quyết định Kinh doanh thương mại phúc thẩm số 43/2021/KDTM- QĐPT ngày 29 tháng 10 năm 2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh.

Về việc: “Yêu cầu hủy bỏ Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông”

4.1. Tóm tắt nội dung vụ án:

Bà Lê Hoàng Diệp Th là cổ đông sáng lập của công ty TN, là người sở hữu 5% vốn điều lệ của công ty, là Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc công ty và là người đại diện theo pháp luật của công ty theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 3700544850 do Sở Kế hoạch Đầu tư tỉnh Bình Dương cấp lần đầu ngày 12/02/2007, thay đổi lần thứ 7 ngày 28/11/2013.

Trong các ngày 11/03/20216, công ty TN đã tiến hành họp Đại hội đồng           cổ đông Hội đồng quản trị ban hành các Nghị quyết (số 01, 02, 03, 04); ngày 13/3/2016 ban hành Quyết định và Nghị quyết bãi nhiệm ngày 13/3/2016 và    Ngày 29/3/2019 công ty TN tiến hành họp và ban hành nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông với các nội dung chính sau: Miễn nhiệm chức danh Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc của Bà Lê Hoàng Diệp Th; đồng thời bổ nhiệm ông Đặng Lê Nguyên V giữ chức danh Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc và người đại diện theo pháp luật của công ty TN.

Ngày 15/7/2016, bà Lê Hoàng Diệp Th có đơn khởi kiện và ngày 03/11/2017 bà Th có đơn bổ sung (sau đó được xác định là các đơn yêu cầu đề nghị Tòa án hủy bỏ các văn bản nêu trên cùng biên bản các cuộc họp vì bà Th cho rằng các văn bản nêu trên là không đúng quy định của pháp luật xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của bà.

4.2. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định:

Ngày 13/02/2020, TAND tỉnh Bình Dương ra Quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu giải quyết việc kinh doanh thương mại số: 01/2020/QĐST-KDTM với lý do: Tòa án cấp sơ thẩm nhận định và kết luận rằng “Yêu cầu của bà Th thuộc trường hợp người yêu cầu không có quyền yêu cầu theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 364 BLTTDS”.

Ngày 18/02/2020, người đại diện theo ủy quyền của bà Th đã có đơn  kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc phẩm hủy Quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu giải quyết việc KDTM nêu trên của TAND cấp sơ thẩm.

4.3. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:

Xét thấy:

Theo quy định tại Điều 147 và Điều 161 Luật Doanh nghiệp thì điều kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết các quyêt định có liên quan đến Đại hội đồng cổ đông và HĐQT của công ty cổ phần thì người đó phải là cổ đông       của công ty đó.

Tuy nhiên, tại Bản án phúc thẩm số 39/2019/HNGĐ-PT ngày 05/12/2019 của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên: “3. Về tài sản: Giao ông Đặng Lê Nguyên V sở hữu toàn bộ số cổ phần tại các công ty trong Tập đoàn TN và các bất động sản…5. Ông Đặng Lê Nguyên   V có trách nhiệm thanh toán chênh lệch tài sản cho bà Lê Hoàng Diệp Th…”

5. Ông Đặng Lê Nguyên V có trách nhiệm thanh toán chênh lệch tài sản cho bà Lê Hoàng Diệp Th là 1.190.677.619.855 đồng (một nghìn một trăm chín mươi tỷ, sáu trăm bảy mươi bảy triệu, sáu trăm mười chín nghìn, tám trăm năm mươi lăm đồng).

Bản án trên đã được ông Đặng Lê Nguyên V thi hành án xong nghĩa vụ thanh toán chênh lệch tài sản cho bà Lê Hoàng Diệp Thảo. Sau đó Bản  án nêu trên đã bị Viện trưởng VKSND tối cao kháng nghị giám đốc thẩm theo Quyết định kháng nghị số 08/QĐKNGĐT-VKS-DS ngày 31/3/2020.

Theo Quyết định Giám đốc thẩm số: 01/2021/HNGĐ-GĐT ngày 11/3/2021 của HĐTP TAND Tối cao và Bản án phúc thẩm số 39/2019/HNGĐ-PT ngày 05/12/2019 của TAND cấp cao tại thành phố Hồ    Chí Minh trước đó đã có hiệu lực pháp luật thì bà Lê Hoàng Diệp Th không còn cổ phần và vốn góp trong các công ty thuộc tập đoàn TN nên bà Th không có quyền yêu cầu Tòa án xem xét hủy các quyết định, nghị quyết của Đại hội đồng Cổ đông, Hội đồng quản trị và các biên bản cuộc họp của Công ty vì không đáp ứng điều kiện theo quy định tại Điều 147 và Điều 161 Luật Doanh nghiệp.

Như vậy, Tại cấp phúc thẩm thì Quyết định giám đốc thẩm có liệu lực vẫn quyết định giao ông Đặng Lê Nguyên V được sở hữu toàn bộ số cổ phần và phần vốn góp của ông Đặng Lê Nguyên V và bà Lê Hoàng Diệp Th trong các công ty thuộc tập đoàn TN và ông Đặng Lê Nguyên V cũng đã thi hành án xong phần tiền chênh lệch theo Quyết định giám đốc thẩm cho bà Th nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của ông Đặng Ngọc Hoàng H đại diện hợp pháp của bà Lê Hoàng Diệp Th.

4.4. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm Quyết định:

Không chấp nhận kháng cáo của ông Đặng Ngọc Hoàng H người đại diện theo ủy quyền của người yêu cầu là bà Lê Hoàng Diệp Th, giữ nguyên Quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu giải quyết việc kinh doanh thương mại số 01/2020/QĐST-KDTM ngày 13/02/2020 của TAND tỉnh Bình Dương.

5. Bản án 5.  Quyết định Kinh doanh thương mại phúc thẩm số 45/2022/VKDTM- PT ngày 31 tháng 03 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

Về việc: “Yêu cầu hủy bỏ Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông”

5.1. Tóm tắt nội dung vụ án:

Công ty … Xây dựng và kỹ thuật công trình (sau đây viết tắt là … 13 là Doanh nghiệp được thành lập theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số … đăng ký lần đầu ngày 24/9/2009. Có trụ sở tại … đường Khuất Duy Tiến, phường Nhân Chính, quận Thanh X …, TP. Hà Nội. Tại thời điểm thành lập 13 có 03 cổ đông sáng lập là ông Lại Thế X sở hữu 6% tổng cổ phần, ông Vũ Văn T sở hữu 7% tổng số cổ phần và công ty… 13 đăng ký sở hữu 51% tổng cổ phần, các cổ đông khác 36% cổ phần. Hiện nay, công ty có tổng số cổ phần là 1.126.670.

Ngày 17/9/2020 và 09/10/2020, ông Vũ T… Đ là Chủ tịch HĐQT … 13 phát hành các thư mời họp Đại hội đồng cổ đông bất thường mà không tổ chức họp HĐQT. Cuộc họp lần 1 ngày 03/10/2020 không đủ điều kiện tổ chức vì chỉ có 56,4% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết.

Ngày 17/10/2020, ông Vũ T … Đg là Chủ tịch HĐQT đã làm chủ tọa   tổ chức cuộc họp ĐHĐCĐ bất thườn năm 2020 với tổng số cổ đông và đại diện cổ đang tham dự đại hội là 10 người, đại diện cho 1.067.865 cổ phần, chiếm tỷ lệ 94,78% trên tổng số cổ phần có quyền biểu quyết.

Vì cho rằng việc tiến hành triệu tập tổ chức và ban hành Nghị quyết ĐHĐCĐ bất thường năm 2020 của … 13 do ông Vũ T… Đ … làm chủ tọa là hoàn toàn trái với quy định của pháp luật, vi phạm nghiêm trọng Điều lệ của … 13. Do đó, các ông Lại Thế X (cổ đông sở hữu 67.836 cổ phần tương ứng với 6% tổng số cổ phần phổ thông) và ông Vũ Văn T… (sở hữu 79.119 cổ phần tương ứng với 7% tổng số cổ phần phổ thông) là nhóm cổ đông của … 13 sở hữu hơn 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn hơn 10 năm liên tục đã làm Đơn đề nghị Tòa thụ lý giải quyết yêu cầu hủy bỏ Nghị quyết số 01 và các hậu quả phái sinh liên quan.

5.2. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định:

Ngày 28/12/2020, TAND quận Thanh X… ban hành Quyết định giải quyết việc KDTM số 70/2020/VKDTM-ST đã quyết định:

Chấp nhận yêu cầu hủy Nghị quyết ĐHĐCĐ của ông Lại Thế X… và ông Vũ Văn T.

Hủy Nghị quyết của ĐHĐCĐ bất thường số 01/2020/NQ-…- ĐHĐCĐ ghi ngày 17/10/2020 của … 13.

Không đồng ý với Quyết định giải quyết việc kinh doanh thương mại nêu trên của TAND quận Thanh X…, … 13, ông Đoàn Trọng Q …, … 13, ông Vũ T… Đ … kháng cáo toàn bộ đối với Quyết định giải quyết việc kinh doanh thương mại sơ thẩm số 70/2020/VKDTM-ST ngày 28/12/2020 của TAND quận Thanh X…

5.3. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:

Về tố tụng: những người kháng cáo gồm Licogi 13, ông Đoàn Trọng Q…, … 13 và ông Vũ T… Đ … kháng cáo trong thời hạn luật định và đã nộp tiền án phí phúc thẩm nên kháng cáo của các đương sự là hợp lệ.

Trong quá trình giải quyết vụ việc tại cấp phúc thẩm người yêu cầu giải quyết việc dân sự là ông Lại Thế X … và ông Vũ Văn T … có đơn xin rút toàn bộ yêu cầu giải quyết việc dân sự. Những người kháng cáo gồm Licogi 13, ông Đoàn Trọng Q …, …13 và ông Vũ T… Đ … có văn bản trình bày ý kiến về việc đồng ý rút yêu cầu khởi kiện của người yêu cầu và rút toàn bộ các yêu cầu kháng cáo, các đương sự đề nghị Tòa án ra quyết định hủy Quyết định giải quyết việc kinh doanh thương mại sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ việc theo quy định của pháp luật.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm Tuyên xử: Hủy Quyết định giải quyết việc kinh doanh thương mại sơ thẩm số 70/2020/VKDTM-ST ngày 28/12/2020 của TAND quận Thanh X …Đình chỉ giải quyết vụ việc KDTM phúc thẩm thụ lý số 49/2021/KTPT ngày 05/3/2021 về việc yêu cầu hủy Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông của TAND thành phố Hà Nội.

6. Bản án 6. Quyết định Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2022/QĐPT- KDTM, ngày 27 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân Tỉnh B.

Về việc: “Yêu cầu hủy bỏ Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông bất thường”

6.1. Tóm tắt nội dung việc dân sự:

Ông Phạm Văn T, sinh năm 1957 là cổ đông của công ty cổ phần thương mại Sơn Động (sở hữu 31,7% vốn điều lệ), được mời tham dự Đại      hội cổ đông bất thường ngày 24/3/2021 do bà Lê Thị H là Trưởng ban kiểm soát công ty triệu tập. Do không tham dự được Đại hội nên ông đã ủy quyền cho bà Lương Thị Vẻ là vợ ông tham gia.

Ngày 24/3/2021, vợ ông T (bà Vẻ) tham gia đại hội và được phát phiếu biểu quyết, theo Ban tổ chức đại hội xác định ông T chỉ có 11,7% vốn điều lệ, còn 20% vốn điều lệ mà ông nhận chuyển nhượng của Nhà nước thông qua đấu giá từ năm 2008 vẫn là cổ phần của Nhà nước. Ban tổ chức xác định bà Vẻ được đại diện biểu quyết 20% vốn điều lệ của Nhà nước. Do không chấp nhận với phiếu biểu quyết trên, bà Vẻ đã xin phép không tham dự Đại hội và đi về. Nhưng sau đó Ban tổ chức vấn tiến hành  Đại hội. Vì cho rằng, việc tổ chức Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 24/3/2021 và ra Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông mà không có biểu quyết của ông là không đúng quy định của pháp luật. Do đó ông T đã làm Đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền Hủy bỏ Nghị quyết nêu trên.

6.2. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định:

Tại Quyết định sơ thẩm giải quyết việc kinh doanh thương mại số: 01/2021/QĐST-VKDTM ngày 07/10/2021 của TAND huyện Sơn Động đã quyết định: Chấp nhận yêu cầu của ông Phạm Văn T. Hủy bỏ Nghị quyết         Đại hội cổ đông bất thường ngày 24/3/2021 của công ty cổ phần Thương mại Sơn Động.

Ngày 12/10/2021, bà Lê Thị H, bà Hoàng Thị T, bà Lương Thị H, bà Đặng Thị N, ông Nguyễn Văn H, ông Nguyễn Xuân G, ông Nguyễn Văn A, bà Hoàng Thị Vinh, bà Lãnh Thị N, bà Ngàn Thị Nguyên, ông Giáp Văn Trọng có đơn kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy quyết định sơ thẩm giải quyết việc KDTM số 01/2021/QĐST-VKDTM ngày 7/10/2021 của TAND huyện Sơn Động; bác yêu cầu của ông Phạm Văn T về việc hủy bỏ biên bản và nghị quyết Đại hội đồng cổ đông.

6.3. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:

Xét nội dung kháng cáo của bà Lê Thị H, bà Hoàng Thị T, ông Nguyễn Văn H, ông Nguyễn Xuân G, bà Ngàn Thị Nguyên, HĐXX nhận thấy:

Xét nội dung kháng cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm thủ tục tố tụng khi xác định sai tư cách đương sự.

Theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 2003000055 ngày 15/4/2003 của Sở KHĐT tỉnh B, đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần thương mại Sơn Động là ông Phạ Văn T - Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc công ty. Các đương sự đều trình bày Sở KHĐT tỉnh B chưa có chấp nhận nào về việc thay đổi người đại diện theo pháp luật của công ty. Do đó, Tòa án xác định ông T là đại diện theo pháp luật của công ty là đảm bảo quy định tại Điều 135 của BLDS 2015 và Điều 12 Luật Doanh nghiệp 2020. Mặt khác, không có căn cứ nào xác định quyền lợi của ông T với quyền lợi của công ty cổ phần thương mại dịch vụ Sơn Động trong vụ việc này đối lập nhau. Do vậy, kháng cáo cho rằng việc xác định tư cách đương sự của Tòa án sơ thẩm vi phạm Điều 87 BLTTDS là không có căn cứ chấp nhận.

Xét nội dung kháng cáo cho rằng Tòaán cấp sơ thẩm đã giải quyết vụ việc không phù hợp với sự thật khách quan, trái với quy định của Luật     Doanh nghiệp hiện hành:

Về trình tự, thủ tục, thể thức, điều kiện triệu tập Đại hội cổ đông bất thường: Các đương sự đều xác nhận Thông báo mời họp Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 24/3/2021 của công ty cổ phần thương mại Sơn Động không gửi kèm phiếu biểu quyết, ban tổ chức phát phiếu biểu quyết  tại Đại hội. Việc làm này của Ban tổ chức Đại hội cổ đông bất thường ngày 24/3/2021 của công ty là vi phạm vào điều kiện triệu tập Đại hội.

Người triệu tập Đại hội cổ đông bất thường ngày 24/3/2021 của công ty không lập danh sách có các thông tin chi tiết của bà Lê Thị H và Hoàng Thị T – những người được đề cử tham gia Hội đồng quản trị để gửi cho các cổ đông tham gia đại hội cùng giấy mời họp là vi phạm vào trình tự, thủ tục triệu tập Đại hội.

Về thể thức triệu tập và tiến trình Đại hội cổ đông: Đại hội cổ đông bất thường ngày 24/3/2021 do bà Lê Thị H – Trưởng Ban kiểm soát triệu       tập. Tuy nhiên, Đại hội lại bầu bà Hoàng Thị H là chủ tọa đại hội là vi phạm vào quy định tại Điều lệ công ty. Bà H cho rằng quy định này của Điều lệ là không phù hợp với thực tế, trái với Luật Doanh nghiệp 2020 là     không có cơ sở chấp nhận.

Về tiêu chuẩn là thành viên HĐQT và tiêu chuẩn đề cử người vào HĐQT và Ban kiểm soát của công ty: Thành viên HĐQT của công ty theo Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 24/3/2021 gồm 03 thành viên chỉ có tổng số vốn điều lệ là 15,6% vốn điều lệ, cụ thể bà Lê Thị H 5,3% vốn điều lệ, ông Nguyễn Công C 5,0% vốn điều lệ, bà Hoàng Thị T 5,3% vốn điều lệ. Như vậy các thành viên của HĐQT được bầu không đủ điều kiện thành lập hội đồng quản trị mới.

Về quyền của cổ đông trong việc ứng cử và đề cử các thành viên tham gia HĐQT và Ban kiểm soát: Những người đề cử tại đại hội không ai đủ 10% vốn điều lệ và không ai được HĐQT cũ và Ban kiểm soát cũ ủy quyền đề cử bằng văn bản nên các đề cử tham giam HĐQT và Ban kiểm soát đại hội là vi phạm vào khoản a, b khoản 5 Điều 115 Luật Doanh nghiệp năm 2020.

- Đối với 20% vốn điều lệ thuộc sở hữu nhà nước hay là sở hữu của ông Phạm Văn T: Tại Đại hội cổ đông bất thường ngày 24/3/2021, Ban tổ chức xác định 600 cổ phần (20% vốn điều lệ) mà ông Phạm Văn T đang quản lý là của nhà nước, ông T chỉ đại diện phần vốn này. Việc làm này là không có căn cứ vì mặc dù các cổ đông trong công ty đang có tranh chấp về việc xác định 20% vốn trên nhưng đến ngày tổ chức Đại hội chưa có một Bản án, quyết định nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền Hủy bỏ kết quả bán đấu giá 600 cổ phần của Nhà nước của ông T.

Từ những phân tích, đánh giá trên, xác định Nghị quyết Đại hội cổ đông bất thường ngày 24/3/2021 của công ty cổ phần thương mại Sơn Động đã vi phạm quy định của Luật Doanh nghiệp 2020 và Điều lệ công ty. TAND huyện Sơn Động chấp nhận yêu cầu của ông Phạm Văn T về việc hủy bỏ nghị quyết đại hội cổ đông bất thường của công ty là có căn cứ.

6.4. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm quyết định:

Căn cứ khoản 3 Điều 374, điểm a khoản 3 Điều 375 của BLTTDS: đình chỉ giải quyết phúc thẩm đối với kháng cáo của bà Lương Thị H, bà Đặng Thị N, ông Nguyễn Văn A, bà Hoàng Thị Vinh, bà Lãnh Thị N, ông Giáp Văn Trọng; không chấp nhận kháng cáo của bà Lê Thị H, bà Hoàng Thị T, ông Nguyễn Văn H, ông Nguyễn Xuân G, bà Ngàn Thị Nguyên; giữ nguyên Quyết định sơ thẩm số 01/2021/QĐST-VKDTM ngày 07/10/2021 của TAND huyện Sơn Động.

7. Bản án 7. Quyết định Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 03/2021/QĐPT- KDTM, ngày 08 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Về việc: “Yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Hội đồng thành viên”

7.1.Tóm tắt nội dung việc dân sự:

Công ty TNHH Bay W (Công ty Bay W) có hai thành viên góp vốn gồm: công ty S (D1) Limited (Công ty S) chiếm tỷ lệ 90% và công ty TNHH Đầu tư SATO (công ty SATO) chiếm tỷ lệ 10%. Công ty SATO yêu cầu hủy Nghị quyết số 05/2019/NQ-HĐTV (Nghị quyết số 05) ngày 03/9/20219 của Công ty Bay W, với lý do: Nghị quyết số 05 được thông qua trái quy định pháp luật về sửa đổi Điều lệ của Công ty Bay W khi không đạt được tỷ lệ thông qua theo quy định của pháp luật và quy định tại Điều lệ của công ty Bay W.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định: Tại Quyết định sơ thẩm giải quyết việc dân sự số: 1257/2020/QĐST- KDTM ngày 17/8/2020 của TAND thành phố Hồ Chí Minh, quyết định: Chấp nhận đơn yêu cầu của công ty TNHH đầu tư SATO: Hủy Nghị quyết số 05/2019/NQ-HĐTV ngày 03/9/2019 của Hội đồng thành viên công ty TNHH Bay W. Hậu quả pháp lý của việc hủy Nghị quyết số 05/2019/NQ- HĐTV ngày 03/9/2019 của Hội đồng thành viên công ty TNHH Bay W theo quy định tại Điều 63 Luật Doanh nghiệp năm 2015.

Ngày 25/8/2020, công ty Sun W và công ty Bay W kháng cáo toàn bộ quyết định sơ thẩm.

7.2. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ việc dân sự được thẩm tra tại phiên họp; ý kiến của các đương sự và đại diện VKS tại phiên họp, Hội đồng phúc thẩm nhận định:

Về thủ tục tố tụng: TAND thành phố Hồ Chí Minh thụ lý việc dân sự    và giải quyết là đúng pháp luật. Công ty Sun W và công ty Bay W kháng cáo đúng quy định tại khoản 1 Điều 31, điểm b khoản 1 Điều 37 BLTTDS  năm 2015. Tại phiên họp, người yêu cầu không rút đơn yêu cầu, người kháng cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo nên việc dân sự được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Về nội dung: Xét yêu cầu của công ty SATO và ý kiến của công ty Bay W, công ty Sun W, thấy rằng:

Khoản 1 Điều 10 và Khoản 3 Điều 23 Điều lệ công ty Bay W là có mâu thuẫn và không thể cùng áp dụng để làm cứ xem xét yêu cầu của các bên đương sự. Trong trường hợp này, cần căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 155 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Doanh nghiệp năm 2014 để xem xét tính hợp pháp của Nghị quyết 05.

Hồ sơ việc dân sự, công ty SATO nhiều lần không tán thành Nghị quyết của Hội đồng thành viên (bút lục số 222 – 232) mà không nêu được lý do chính đáng. Điều này đã vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, được quy định tại khoản 3 Điều 3 của BLDS năm 2015 là: “Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí,…”.

Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ Khoản 3 Điều 23 mà không xem xét Khoản 1 Điều 10 Điều lệ công ty Bay W để chấp nhận yêu cầu của công ty  SATO, hủy Nghị quyết số 05/2019/NQ-HĐTV là không có căn cứ. Vì vậy, Hội đồng phiên họp thống nhất không chấp nhận ý kiến của VKS, chấp nhận kháng cáo của công ty Sun W và công ty Bay W, không chấp nhận yêu cầu của công ty SATO về yêu cầu hủy Nghị quyết số 05/2019/NQ- HĐTV ngày 03/9/2019 của Hội đồng thành viên công ty TNHH Bay W; Sửa Quyết định sơ thẩm giải quyết việc dân sự số: 1257/2020/QĐST- KDTM ngày 17/8/2020 của TAND thành phố Hồ Chí Minh. Công ty Sun W và công ty Bay W không phải chịu lệ phí phúc thẩm.

7.3. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm quyết định:

Chấp nhận kháng cáo của công ty Sun W(D1) Limited. Chấp nhận kháng cáo của công ty TNHH Bay W. Sửa Quyết định sơ thẩm giải quyết việc dân sự số: 1257/2020/QĐST- KDTM ngày 17/8/2020 của TAND thành phố Hồ Chí Minh. Không chấp nhận đơn yêu cầu của công ty TNHH Đầu tư SATO về việc yêu cầu hủy Nghị quyết số 05/2019/NQ-HĐTV ngày 03/9/2019 của Hội đồng thành viên Công ty TNHH Bay W.

8. Bản án 8. Quyết định Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 219/2020/VKDTM- PT, ngày 15 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

Về việc: “Yêu cầu hủy bỏ Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông”

8.1. Tóm tắt nội dung việc dân sự:

Tổng công ty L là cổ đông của công ty L1, sở hữu 30% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết.

Ngày 29/6/2016 công ty L1 tổ chức họp đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2016, tham dự cuộc họp có 03 cổ đông đại diện cho 1.782.540 cổ phần trên tổng số 1.800.000 cổ phần chiếm 99,3% số cổ đông có quyền  biểu quyết của công ty. Tại cuộc họp các cổ đông đã thông qua Nghị quyết 03/2016/NQ-ĐHCĐ ngày 29/6/2016. Tổng công ty L cho rằng, việc thông qua một số nội dung tại cuộc họp đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2016 đã vi phạm quy định của Luật Doanh nghiệp và Điều lệ công ty. Do đó, Tổng công ty L đã làm Đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết Hủy một phần Nghị quyết 03/2016/NQ-ĐHCĐ ngày 29/6/2016 của công ty L1, cụ thể là hủy Điều 5 và Điều 6 của Nghị quyết trên.

8.2. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định:

Tại Quyết định giải quyết việc kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2020/QĐST-KDTM ngày 24/8/2020 của TAND quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội đã quyết định:

Chấp nhận yêu cầu của Tổng công ty L – công ty CP về việc hủy bỏ một phần Nghị quyết số 03/2016 – ĐHĐCĐ ngày 29/6/2016 của công ty CP thương mại L1. Hủy bỏ Điều 5 và Điều 6 Nghị quyết số 03/2016 – ĐHĐCĐ ngày 29/6/2016 của công ty L1.

Không đồng ý với Quyết định giải quyết việc dân sự của TAND quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, công ty L1 kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy toàn bộ quyết định giải quyết việc KDTM ngày 24/8/2020 của TAND cấp sơ thẩm.

8.3. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:

 Về tố tụng: Đơn kháng cáo của công ty L1 trong thời hạn luật định và đã nộp tạm ứng lệ phí phúc thẩm nên hợp lệ. Tổng công ty L đề nghị Tòa án xem xét hủy một phần nghị quyết đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2016 của công ty L1. Xét đây là việc  KDTM theo quy định khoản 1 Điều 31 BLTTDS.

Công ty L1 có địa chỉ tại phường N, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. TAND quận Hai Bà Trưng thụ lý giải quyết theo trình tự sơ thẩm là đúng thẩm quyền.

Xét yêu cầu kháng cáo:

Về thủ tục tố tụng: Hội đồng phúc thẩm xét thấy:

Theo các quy định của BLTTDS năm 2015 không bắt buộc Tòa án phải tạm ngừng phiên tòa để thu thập tài liệu, chứng cứ. Do đó, công ty L1  kháng cáo là không có cơ sở để xem xét chấp nhận.

Xét nội dung công văn 4715/CSKT-P15 ngày 10/08/2020 của Cục CSĐT tội phạm về tham nhũng, kinh tế, chức vụ không liên quan và không có tính chất quan hệ nhân quả quyết định đến quá trình giải quyết việc kinh doanh thương mại về hủy bỏ nghị quyết Đại hội đồng cổ đông mà TAND quận Hai Bà Trưng đang giải quyết. Do đó, kháng cáo cho rằng TAND quận Hai Bà Trưng không ra quyết định tạm đình chỉ là không có cơ sở để xem xét chấp nhận.

Về thời hiệu khởi kiện: Hội đồng phúc thẩm xét thấy: Đối chiếu quy định tại Điều 147 Luật Doanh nghiệp thì Tổng công ty L thực hiện khởi kiện yêu cầu hủy Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông hoàn toàn trong thời hiệu pháp luật quy định. Ngoài ra, việc Tổng công ty gửi đơn khởi kiện đến TAND thành phố Hà Nội đã được TAND thành phố Hà Nội xác định và chuyển đơn đến Tòa án có thẩm quyền theo đúng quy định của pháp luật (điểm c khoản 3 Điều 191 BLTTDS 2015). Đảm bảo việc khởi kiện trong thời hiệu theo quy định.

Ngày 21/9/2016 Tổng công ty L khởi kiện yêu cầu hủy Nghị quyết Đại hội cổ đông thường niên số 03/NQ ngày 29/6/2016 của công ty L1, Tổng công ty L đã cung cấp tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện trong đó bao gồm đơn yêu cầu 07/11/2016 là phù hợp với Điều 190; 191; 193 BLTDS và phù hợp với Điều 14.7 Điều lệ công ty L1 năm 2010.

Về nội dung Nghị quyết số 03/2016/NQ-ĐHĐCĐ ngày 29/6/2016 của Đại hội đồng cổ đông công ty L1:

Theo quy định của Luật DN thì tại thời điểm tổ chức Đại hội cổ đông năm 2016, Điều lệ công ty năm 2010 vẫn có hiệu lực pháp luật.

Luật Doanh nghiệp chỉ quy định ít nhất 65% tổng số phiếu, còn tỷ lệ cụ thể do Điều lệ năm 2010 của công ty cổ phần thương mại L1 đang có hiệu lực quy định tỷ lệ ít nhất là 75% không trái với Luật Doanh nghiệp.

Vì vậy, Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông công ty ngày 29/6/2016 thông qua nội dung sửa đổi điều lệ và tăng vốn điều lệ với tỷ lệ 69,7% là  không đủ tỷ lệ để thông qua theo quy định tại Điều lệ công ty năm 2010 do  đó chấp nhận yêu cầu của Tổng công ty L.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét và quyết định đối với yêu cầu của Tổng công ty L có căn cứ, đúng pháp luật.

Từ những phân tích trên, Hội đồng phúc thẩm giải quyết việc dân sự   xét thấy không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của công ty L1, giữ  nguyên quyết định của TAND quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.

Kết luận của đại diện VKSND thành phố Hà Nội phù hợp với chứng   cứ có trong hồ sơ và quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

8.4. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm quyết định:

Không chấp nhận kháng cáo của công ty L1. Giữ nguyên Quyết định   giải quyết việc kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2020/QĐST-KDTM ngày 24/8/2020 của TAND quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội: Chấp nhận yêu cầu của Tổng công ty L - công ty cổ phần về việc hủy bỏ một phần Nghị quyết số 03/2016 – ĐHĐCĐ ngày 29/6/2016 của công ty L1. Hủy bỏ Điều 5 và Điều 6 Nghị quyết số 03/2016-ĐHĐCĐ ngày 29/6/2016 của công ty L1.

9. Bản án 9. Quyết định Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 142/2021/VKDTM- PT, ngày 07 tháng 07 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

Về việc: “Yêu cầu hủy bỏ Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông”

9.1. Tóm tắt nội dung việc dân sự:

Tổng công ty LN – Công ty cổ phần hiện là cổ đông của Công ty LS, sở hữu 30% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết.

Ngày 12/6/2019, công ty LS tổ chức họp Đại hội đồng cổ đông thường niênnăm 2019 và thông qua Nghị quyết 04/2019/NQ-ĐHĐCĐ ngày 12/6/2019. Tổng công ty LN cho rằng, việc thông qua một số nội dung tại cuộc họp đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2019 đã vi phạm quy định của Luật Doanh nghiệp và Điều lệ công ty 2010. Do đó, Tổng công ty LN đã làm Đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết Hủy một phần Nghị quyết 04/2019/NQ-ĐHCĐ ngày 12/6/2019 của công ty LS về nội dung “Thông qua việc thực hiện tái cấu trúc tài chính doanh nghiệp, tăng vốn điều lệ để Công ty có nguồn vốn kinh doanh, bù lỗ lũy kế, đảm bảo đủ nguồn vốn để thực hiện dự án tại 67 NTN”.

9.2. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định:

Tại Quyết định giải quyết việc kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2021/QĐST-KDTM ngày 01/02/2021 của TAND quận HBT, thành phố Hà Nội đã quyết định: Chấp nhận yêu cầu của Tổng công ty LN – công ty CP về việc hủy bỏ một phần Nghị quyết số 04/2019 – ĐHĐCĐ ngày 12/6/2019 của công ty      CP thương mại LS.

Hủy bỏ nội dung “Thông qua việc thực hiện tái cấu trúc tài chính doanh nghiệp, tăng vốn điều lệ công ty có nguồn vốn kinh doanh, bù số lỗ lũy kế, đảm bảo đủ nguồn vốn để thực hiện dự án tại 67 NTN” tại Điều 5 Nghị quyết số 04/2019/NQ-ĐHĐCĐ ngày 12/6/2019 của Đại hội đồng    cổ đông công ty cổ phần Thương mại LS.

Không đồng ý với Quyết định giải quyết việc dân sự của TAND HBT, công ty cổ phần kháng cáo với các lý do sau: Vụ việc đã hết thời hiệu khởi kiện nên đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy Quyết định giải quyết việc dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ việc. Nghị quyết số 04 đã đảm bảo điều kiện số phiếu biểu quyết tán thành khi thông qua nội dung. Công ty LS thông qua việc tái cấu trúc công ty với mục đích thực hiện dự án 67 NTN là có căn cứ và đã thực hiện đầy đủ các thủ tục theo quy định của pháp luật khi thông qua việc thực hiện tái cấu trúc tài chính doanh nghiệp, tăng vốn điều lệ.

9.3. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:

Về tố tụng: Đơn kháng cáo của công ty cổ phần thương mại LS (Sau đây gọi tắt là công ty LS) làm trong thời hạn luật định và đã nộp tạm  ứng lệ phí phúc thẩm là hợp lệ.

Về quyền khởi kiện: Tổng công ty LN là cổ đông sáng lập chiếm 30%  tổng số cổ phần và liên tục trên 6 tháng tính đến ngày công ty LS triệu tập  Đại hội cổ đông (12/6/2019). Vì vậy, theo quy định tại Điều 147 Luật DN 2014 thì Tổng công ty LN có quyền yêu cầu hủy Nghị quyết ĐHĐCĐ của công ty LS. Công ty LS có trụ sở tại 67 NTN, quận HBT nên TAND quận  HBT thụ lý giải quyết việc sơ thẩm là đúng thẩm quyền.

Xét kháng cáo của công ty LS: Mặc dù Tổng công ty LN nộp đơn với  tiêu đề “Đơn khởi kiện”, không phải “Đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự” theo quy định tại Điều 362 BLTTDS tuy nhiên, nội dung của “Đơn khởi kiện” là yêu cầu hủy bỏ nghị quyết ĐHĐCĐ là việc dân sự theo quy định  tại khoản Điều 31 BLTTDS. Do vậy, việc nhầm lẫn, sai sót về hình thức của đơn yêu cầu hủy Nghị quyết của ĐHĐCĐ của Tổng công ty LN không làm thay đổi bản chất quan hệ pháp luật giải quyết cũng như yêu cầu của Tổng công ty LN xác định nên TAND quận HBT thụ lý và giải quyết là còn thời hiệu và đúng thẩm quyền.

Về nội dung:

Xem xét tính hợp pháp của cuộc họp Đại hội đồng cổ đông thấy:

Về thẩm quyền triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông: Hội đồng quản   trị công ty LS đã triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông là đúng thẩm quyền theo quyđịnh tại khoản 1 Điều 136 Luật Doanh nghiệp.

Về trình tự, thủ tục họp Đại hội đồng cổ đông: Đối chiếu với quy định tại khoản 7 Điều 136 Luật DN, xác định HĐQT đã thực hiện đúng và đầy đủ các công việc để tổ chức Đại hội đồng cổ đông công ty.

Về điều kiện tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông: Đối chiếu quy định tại điều lệ năm 2010 về điều kiện tiến hành Đại hội đồng cổ đông, thấy: Tại khoản 14.5 điều 14 điều lệ quy định: Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông được tiến hành khi có số cổ đông dự họp đại diện ít nhất 65% số cổ phần có quyền biểu quyết. Theo biên bản họp Đại hội đồng cổ đông thể hiện cổ đông trực tiếp tham dự Đại hội gồ 02 cổ đông tương ứng 1.782.540 cổ phần chiếm 99,03% số cổ phần có quyền biểu quyết. Do vậy, thấy rằng cuộc họp Đại hội cổ đông đã đủ điều kiện tiến hành theo quy định tại Luật Doanh nghiệp và điều lệ công ty.

Về hình thức, điều kiện thông qua nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông: Tổng công ty LN chỉ yêu cầu hủy một phần Nghị quyết 04 cụ thể là yêu cầu hủy nội dung: Thông qua việc thực hiện tái cấu trúc tài chính doanh nghiệp, tăng vốn điều lệ để công ty có nguồn vốn kinh doanh, bù số lỗ lũy kế, đảm bảo đủ nguồn vốn để thực hiện dự án tại 67 NTN.

Về nội dung này, HĐXX thấy:

Thứ nhất, Công ty LS kháng cáo cho rằng tỷ lệ 69,71% số phiếu biểu quyết tán thành thông qua nội dung nghị quyết là hợp lệ theo quy định tại khoản 1 Điều 144 Luật DN (ít nhất 65%) là không đúng vì quy định này của Luật DN được hiểu là tỷ lệ biểu quyết tán thành tối thiểu còn tỷ lệ cụ thể thì được quy định trong điều lệ công ty. Tỷ lệ ít nhất 75% số phiếu biểu quyết tán thành được quy định tại điều lệ công ty để thông qua nội dung trên là hoàn toàn phù hợp với thực tế và không trái quy định tại Điều 144 Luật Doanh nghiệp.

Thứ hai, Công ty LS cho rằng theo Quyết định số 3164/QĐ-UBND ngày 05/6/2003 của UBND thành phố Hà Nội về việc cho thuê đất; GCNQSDĐ số X968709 của Công ty LS thì công ty là chủ sử dụng đất hợp pháp đối với diện tích 1.795,8m2 đất tại 67 NTN. Tuy nhiên, tài liệu hồ sơ thể hiện: thì TAND tối cao đã có kháng nghị số 39/2020/KN-DS ngày 22/6/2020 đối với bản án phúc thẩm của TAND thành phố Hà Nội về việc tranh chấp quyền sử dụng đất giữa công ty LS và Tổng công ty LN. Hiện nay, chưa có bản án có hiệu lực về vụ việc này. Do vậy, Đại hội đồng cổ đông thông qua nghị quyết tăng vốn để thực hiện dự án tại 67 NTN là không đúng.

Công ty LS cho rằng dự án Trung tâm thương mại và văn phòng giao dịch tại 67 NTN đã được Đại hội đồng cổ đông thông qua tại Nghị quyết    số 09/2006/CT-ĐHĐCĐ-NQ ngày 10/9/2009 với tỷ lệ tán thành 100% nên nay không cần phải triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông công ty lại, công ty đã được cấp giấy phép xây dựng, đã tiến hành khởi công và chưa bị cơ quan có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ thực hiện dự án với lý do đất có tranh chấp. Thấy rằng, ý kiến này của công ty LS là không đúng theo quy định tại Điều 136 Luật Doanh nghiệp, khoản 14.3 điều 14 Điều lệ công ty năm 2010.

Từ những phân tích trên, thấy rằng Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu hủy một phần Nghị quyết đại hội đồng cổ đông của Tổng công ty LN         là có căn cứ

9.4.  Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm quyết định:

Không chấp nhận kháng cáo của công ty cổ phần thương mại LS. Giữ nguyên Quyết định giải quyết việc kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2021/QĐST-KDTM ngày 01/02/2021 của TAND quận HBT quyết định như sau: Chấp nhận yêu cầu của Tổng công ty LN - công ty cổ phần về việc đề nghị hủy bỏ một phần Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2019 ngày 12/6/2019 của công ty cổ phần thương mại LS. Hủy bỏ nội dung “Thông qua việc thực hiện tái cấu trúc tài chính doanh nghiệp, tăng vốn điều lệ để công ty có nguồn vốn kinh doanh, bù số lỗ lũy kế, đảm bảo đủ nguồn vốn để thực hiện dự án tại 67 NTN” tại Điều 5 Nghị quyết 04/2019/NQ-ĐHĐCĐ ngày 12/6/2019 của Đại hội đồng cổ đông công ty cổ phần thương mại LS.

10. Bản án 10. Quyết định Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 57/2021/VKDTM-PT, ngày 31 tháng 03 năm 2021, ngày 06 tháng 04 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

Về việc: “Yêu cầu hủy bỏ Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông”

10.1. Tóm tắt nội dung việc dân sự:

Công ty MHD được Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu ngày 13/11/2014, có địa chỉ tại: Lô HH, Khu đô thị T, đường TH, phường T, quận N, thành phố Hà Nội. Qua nhiều lần thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh thì đến thời điểm hiện nay, vốn điều lệ là 359.000.000.000 đồng, Lĩnh vực hoạt động chính là đầu tư xây dựng và kinh doanh dự án bất động sản.

Tháng 12.2018, ông Nguyễn Ngọc P sinh năm 1958 nhận chuyển nhượng cổ phần và trở thành cổ đông sở hữu 4.000.000 cổ phần phổ thông, trị giá 40.000.000.000 đồng (Bốn mươi tỷ đồng) chiếm 11,14% vốn điều lệ của công ty (Thể hiện tại Sổ Đăng ký cổ đông sáng lập tháng 12/2018).

Ngày 27/12/2019 công ty đã tổ chức họp Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2019 và Ban hành Nghị quyết số 129/NQ-ĐHĐCĐ- MHDHN. Vì cho rằng Nghị quyết trên của công ty không đúng quy định pháp luật và xâm phạm tới quyền và lợi ích của ông. Do đó ông P đã làm Đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết hủy toàn bộ Nghị quyết nêu trên và hủy toàn bộ nội dung bản điều lệ ngày 27/5/2019 của công ty MHD.

10.2. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định:

Tại Quyết định giải quyết việc kinh doanh thương mại sơ thẩm số 45/2020/QĐST-KDTM ngày 29/9/2020 của TAND quận NTL đã quyết định như sau:

Không chấp nhận yêu cầu giải quyết việc dân sự của ông Nguyễn Ngọc P về việc: Tuyên bố sự không hợp pháp của Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2019 ngày 27/12/2019 của công ty MHD; hủy bỏ Nghị quyết đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2019 ngày 27/12/2019 của công ty MHD và hủy toàn bộ nội dung bản Điều lệ ngày 27/5/2019 của công ty MHD.

Ngày 05/10/2020 ông Nguyễn Ngọc P kháng cáo toàn bộ Quyết định nêu trên, đề nghị Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông P.

10.3. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:

Về tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Ngọc P trong thời hạn luật định và đã nộp tạm ứng lệ phí phúc thẩm là hợp lệ.

Ông Nguyễn Ngọc P là cổ đông của công ty từ 15/12/2018 do vậy có quyền khởi kiện yêu cầu hủy bỏ Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông theo quy định tại Điều 147 Luật doanh nghiệp và điều 10.3 Điều lệ công ty.

Về nội dung: Về kiến nghị của ông Nguyễn Ngọc P: Đối chiếu các quy định của Luật Doanh nghiệp và điều lệ công ty thấy rằng kiến nghị ngày 24/12/2019 của ông P có những nội dung trên là thuộc thẩm quyền giải quyết của Đại hội đồng cổ đông, do vậy việc Chủ tịch HĐQT công ty MHD không giải quyết kiến nghị và đưa bổ sung kiến nghị của ông P vào chương trình cuộc họp là vi phạm khoản 4 Điều 138 Luật Doanh nghiệp, do vậy việc ông P có yêu cầu hủy Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông ngày 27/12/2019 do vi phạm trình tự khi tiến hành phiên họp là có căn cứ, nên chấp nhận.

- Về nội dung Nghị quyết 29/NQ-ĐHĐCĐ-MHDHN: Tại phiên họp người đại diện của ông Sơn và ông P đều có ý kiến và nộp cho Tòa án tài liệu thể hiện công ty MHD còn nợ tiền sử dụng đất, tiền thuê đất thể hiện công ty MHD chưa hoàn thành nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước do vậy việc Đại hộiđồng cổ đông thường niên năm 2019 của công ty MHD đã thông qua nghị quyết số 129/NQ-ĐHĐCĐ-MHDHN ngày 27/12/2019 với     nội dung đã thông qua phương án đầu tư xây dựng, giá bán, phương án huy    động vốn dự án Tòa nhà MHD Trung Văn khi dự án chưa hoàn thành nghĩa vụ tài chính là vi phạm điều 8 Luật kinh doanh bất động sản.

Từ các nhận định nêu trên thấy rằng yêu cầu của ông Nguyễn Ngọc P về việc yêu cầu hủy bỏ Nghị quyết số 129/NQ-ĐHĐCĐ-MHDHN ngày 27/12/2019 do Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2019 của công ty MHD thông qua do vi phạm trình tự khi tiến hành phiên họp và 1 phần nội dung vi phạm luật kinh doanh bất động sản là có căn cứ, nên chấp nhận. Do vậy căn cứ điểm b khoản 3 Điều 375 BLTTDS chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Ngọc P, sửa quyết định sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu của ông P.

10.4. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm quyết định:

Chấp nhận yêu cầu giải quyết việc dân sự của ông Nguyễn Ngọc P. Hủy bỏ Nghị quyết đại hội đồng cổ đông thường niên năm2019 ngày 27/12/2019 của công ty MHD. Không chấp nhận các yêu cầu khác của các đương sự.

Trên đây là toàn bộ các quy định về thủ tục yêu cầu hủy bỏ Nghị quyết đại hội đồng cổ đông /nghị quyết hội đồng thành viên và 10 bản án, quyết định có liên quan làm cơ sở tham khảo cho khách hàng.

 

Liên hệ

Địa chỉ 1: Tầng 3, Tòa nhà Indochina Riverside Tower, 74 Bạch Đằng, Quận Hải Châu, Thành phố Đà Nẵng, Việt Nam

Địa chỉ 2: 28 Thanh Lương 20, Phường Hòa Xuân, Quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng

Hotline 1: (+84) 357 466 579

Hotline 2: (+84) 985 271 242

Điện thoại: (+84) 236.366.4674

Email: contact@dblegal.vn

zalo
facebook