Các trường hợp không thuộc diện cấp Giấy phép lao động theo quy định tại Nghị định 219/2025/NĐ-CP
Ngày 07/8/2025, Chính phủ ban hành Nghị định 219/2025/NĐ-CP quy định về người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Nghị định này có nhiều điểm mới so với quy định trước đây (Nghị định 152/2020/NĐ-CP và Nghị định 70/2023/NĐ-CP) nhằm tạo thuận lợi hơn cho người lao động nước ngoài. Trong đó, một trong những thay đổi quan trọng là mở rộng danh mục các trường hợp không thuộc diện cấp giấy phép lao động, nâng tổng số lên 15 trường hợp trong khi trước đây quy định cũ là 14 trường hợp.
Trường hợp không thuộc diện cấp Giấy phép lao động (hay còn gọi "miễn giấy phép lao động") theo Nghị định 219/2025/NĐ-CP gồm toàn bộ 15 trường hợp sau đây: Trước hết, Nghị định này giữ nguyên việc miễn giấy phép lao động cho những đối tượng đã được quy định tại các khoản 3, 4, 5, 6, 7 và 8 Điều 154 Bộ luật Lao động 2019. Ví dụ, bao gồm trường hợp người nước ngoài là Trưởng văn phòng đại diện, dự án của tổ chức quốc tế hoặc tổ chức phi chính phủ; những lao động nhập cảnh dưới 3 tháng để chào bán dịch vụ hoặc khắc phục sự cố kỹ thuật, công nghệ phức tạp; luật sư nước ngoài đã được cấp giấy phép hành nghề tại Việt Nam; hoặc người nước ngoài kết hôn với công dân Việt Nam và sinh sống tại Việt Nam. Các trường hợp này vốn đã được quy định trong Bộ luật Lao động và được Nghị định này tái khẳng định.
Ngoài ra, Nghị định 219/2025/NĐ-CP bổ sung và làm rõ nhiều trường hợp miễn giấy phép lao động mới. Cụ thể, trường hợp thứ hai và thứ ba là dành cho chủ đầu tư hoặc thành viên góp vốn trong doanh nghiệp: người là chủ sở hữu hoặc thành viên góp vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn có vốn góp từ 3 tỷ đồng trở lên; và người là Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc thành viên Hội đồng quản trị của công ty cổ phần có giá trị góp vốn từ 3 tỷ đồng trở lên. Tiếp đó, trường hợp thứ tư là người vào Việt Nam để cung cấp dịch vụ tư vấn chuyên môn, kỹ thuật hoặc thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) theo điều ước quốc tế. Trường hợp thứ năm là phóng viên nước ngoài hoạt động báo chí, đã được Bộ Ngoại giao xác nhận cho phép làm việc tại Việt Nam.
Nhóm các trường hợp sau liên quan đến giáo dục, gia đình ngoại giao và các tổ chức quốc tế: Trường hợp thứ sáu là người do cơ quan hoặc tổ chức nước ngoài cử sang Việt Nam giảng dạy, làm quản lý, giám đốc điều hành tại các cơ sở giáo dục được thành lập theo đề nghị của cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài, tổ chức liên chính phủ hoặc theo điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Thứ bảy là học sinh, sinh viên, học viên nước ngoài đang học tập tại các trường, cơ sở đào tạo ở Việt Nam (hoặc ở nước ngoài) có thỏa thuận thực tập hoặc được mời làm việc tại Việt Nam, cũng như học viên thực tập, tập sự trên tàu biển Việt Nam. Thứ tám là thân nhân của thành viên cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam, được phép làm việc theo điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Thứ chín là người có hộ chiếu công vụ vào làm việc cho cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị hoặc tổ chức chính trị – xã hội của Việt Nam.
Nghị định 219/2025/NĐ-CP cũng miễn giấy phép lao động cho một số trường hợp đặc thù khác: Thứ mười là người chịu trách nhiệm thành lập hiện diện thương mại của tổ chức nước ngoài tại Việt Nam (như văn phòng đại diện, chi nhánh, hoặc văn phòng điều hành của nhà đầu tư nước ngoài). Thứ mười một là tình nguyện viên nước ngoài sang làm việc tự nguyện, không hưởng lương, thực hiện điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia và có xác nhận của cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam. Thứ mười hai là người vào Việt Nam để thực hiện thỏa thuận quốc tế do cơ quan trung ương hoặc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ký kết theo quy định của pháp luật.
Cuối cùng, Nghị định 219/2025/NĐ-CP quy định miễn giấy phép lao động cho hai nhóm trường hợp đặc biệt liên quan đến các nhà quản lý, chuyên gia và lĩnh vực ưu tiên. Thứ mười ba là người lao động nước ngoài làm việc ở vị trí nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia hoặc lao động kỹ thuật thuộc một trong hai trường hợp: (i) nhập cảnh để làm việc dưới 90 ngày trong một năm (tổng cộng tính từ đầu năm đến cuối năm); hoặc (ii) di chuyển có thời hạn trong nội bộ doanh nghiệp (từ doanh nghiệp nước ngoài sang hiện diện thương mại tại Việt Nam) thuộc phạm vi 11 ngành dịch vụ đã cam kết của Việt Nam tại WTO, với điều kiện người lao động đó đã được doanh nghiệp tuyển dụng liên tục ít nhất 12 tháng trước khi vào Việt Nam. Lưu ý, đây là điểm mới so với quy định cũ: Nghị định này tăng hạn mức thời gian từ 30 ngày (trước đây chỉ cho phép dưới 30 ngày, tối đa 3 lần mỗi năm) lên thành dưới 90 ngày/năm. Trường hợp thứ mười bốn là người được Bộ Giáo dục và Đào tạo xác nhận cho phép vào Việt Nam để thực hiện các nhiệm vụ giáo dục, bao gồm: giảng dạy, nghiên cứu, chuyển giao chương trình quốc tế; hoặc làm nhà quản lý, giám đốc điều hành, hiệu trưởng, phó hiệu trưởng tại cơ sở giáo dục do cơ quan ngoại giao nước ngoài hoặc tổ chức liên chính phủ đề nghị thành lập. Trường hợp thứ mười lăm (mới được bổ sung) là người lao động nước ngoài được các bộ, cơ quan ngang bộ hoặc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xác nhận vào Việt Nam làm việc trong các lĩnh vực ưu tiên phát triển, như tài chính, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và các lĩnh vực ưu tiên khác.
Có thể thấy Nghị định 219/2025/NĐ-CP mở rộng thêm một số đối tượng được miễn giấy phép lao động so với Nghị định 152/2020/NĐ-CP. Tổng số trường hợp tăng từ 14 lên 15. Một số điểm mới nổi bật gồm: Thời hạn làm việc ngắn hạn được nâng lên 90 ngày thay vì 30 ngày như trước; thêm trường hợp miễn giấy phép lao động cho lao động nước ngoài làm việc trong các lĩnh vực ưu tiên phát triển kinh tế – xã hội (trường hợp 15) vốn không có trong quy định cũ. Ngoài ra, Nghị định 219/2025/NĐ-CP còn đơn giản hóa thủ tục liên quan cho một số nhóm đối tượng: ví dụ, phóng viên nước ngoài hiện chỉ cần được Bộ Ngoại giao xác nhận thay vì phải được cấp riêng giấy phép báo chí như trước đây.
Như vậy, Nghị định 219/2025/NĐ-CP với 15 trường hợp miễn giấy phép lao động đã tổng hợp cả những trường hợp truyền thống theo Bộ luật Lao động và bổ sung thêm các nhóm đối tượng ưu tiên, góp phần thu hút lao động nước ngoài có chuyên môn cao, đồng thời giảm bớt thủ tục hành chính. Người lao động nước ngoài thuộc các trường hợp miễn này vẫn phải được cấp “Giấy xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động” để chứng minh tình trạng miễn phép, nhưng tổng thể chính sách mới đã tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp và người lao động.
Thông tin có trong bài viết này mang tính chất chung và chỉ nhằm mục đích cung cấp thông tin về quy định pháp luật. DB Legal sẽ không chịu trách nhiệm cho bất kỳ việc sử dụng hoặc áp dụng thông tin cho bất kỳ mục đích kinh doanh nào. Để có tư vấn pháp lý chuyên sâu, xin vui lòng liên hệ với chúng tôi.
For more information:
📞: +84 357 466 579
📧: contact@dblegal.vn
🌐Facebook: DB Legal Vietnamese Fanpage or DB Legal English Fanpage
Bài viết liên quan:
- SO SÁNH NGHỊ ĐỊNH 152/2020/NĐ-CP VÀ NGHỊ ĐỊNH 219/2025/NĐ-CP VỀ ĐIỀU KIỆN CẤP GIẤY PHÉP LAO ĐỘNG CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
- QUY TRÌNH XIN CẤP, GIA HẠN VÀ CẤP LẠI GIẤY PHÉP LAO ĐỘNG
- GIẤY PHÉP LAO ĐỘNG CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM: PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ HƯỚNG DẪN THỰC TIỄN CẬP NHẬT ĐẾN NĂM 2025
- CÁC TRƯỜNG HỢP MIỄN GIẤY PHÉP LAO ĐỘNG VÀ THỦ TỤC XÁC NHẬN
- Phân cấp quản lý trong lĩnh vực về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam từ 1/7/2025
- Bị sa thải trái pháp luật phải làm sao
- Sổ quản lý lao động và Báo cáo Lao động tại Việt Nam